Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 17 tháng 4, 2012

Một trăm ngày niệm Phật




LỜI NÓI ĐẦU
&&&


Giáo lý nhà Phật thật là mênh mông, mênh mông như trời cao đất rộng, như biển cả sông dài. Được học giáo lý nhà Phật, học hoài học mãi không bao giờ chấm dứt hết chữ nghĩa, cho dù nền giáo lý chỉ là khuôn thước trong tam tạng thánh điển.

Trong đời học Phật, học làm Phật của vị Tăng hay vị Ni, gọi là những vị có học, nhưng cũng không biết làm sao đọc cho hết tạng Kinh, tạng Luật, tạng Luận, huống chi là người không học gì cả. Người tu có học giáo lý để biết, biết những lời dạy của Phật sao mà vi diệu, mở thông trí tuệ, soi đèn sáng cho chúng sanh, cho những người không học biết dò đường để đi đêm; người nghe rồi đều phát tâm vào đạo tu hành, người nghe rồi phát tâm cầu học đạo giải thoát, tìm cầu lý mầu cao siêu mà dẩn dắt chúng sanh vào biển pháp.

Đối với người Phật tử dù tu ở hệ phái nào đi nữa thì cũng lắm gia duyên bận buộc, khó mà tìm cầu được lý chân giải thoát, lánh xa thế giới tham sân si, thu thúc mình vào am thanh cảnh vắng, lánh xa khói bụi mịt mờ, ngựa xe như nước áo quần như nêm, sống đời sống đạo hạnh, tịnh hạnh như chư Tăng Ni chốn thiền lâm. Thêm vào đó việc xã hội, việc thế gian, việc gia đình, bạn bè hương thân gia tộc… là những sợi dây vô hình ràng buộc tạo nên dẫy đầy những trở ngại cho bước chân đi suốt cuộc đời, thì làm gì có thời gian rổi rảnh mà dành cho Phật tử nghiên cứu sưu tầm giáo lý học tu, hoặc nghe thuyết pháp tỏ sáng lý mầu tịnh niệm.

Với các lẽ trên, nhân khóa niệm Phật “Bá nhựt trì danh hiệuPhật”,
được tổ chức hằng năm tại Nhứt Nguyên Bửu Tự, dành cho những người Cư sĩ thâm niên học Phật, những người Phật tử trẻ tuổi, những người có duyên với pháp môn niệm Phật Tịnh độ ham thích niệm Phật phát tâm đến đó tham dự kinh hành niệm Phật, dành cho những cư sĩ không luận trẻ già nam nữ, đến đó mà “tinh chuyên niệm Phật”; chúng tôi mạo muội biên soạn quyển sách Phật nhan đề “Một trăm ngày niệm Phật & một trăm bài pháp”, tức là mỗi ngày niệm Phật trong khóa lễ “Bá nhựt trì danh”, quý Phật tử được học một bài pháp, có ý nghĩa sát hợp với tầm hiểu biết, khẳng định lý nghĩa Phật pháp, vừa sức cho người đọc, văn cú không dài cũng không ngắn, đọc học thì hiểu ngay, dứt nghi… vì tất cả những “áo nghĩa” ẩn ý của kinh sách Phật đều được giải bày.

Mỗi ngày niệm Phật là học một bài pháp có liên quan đến sự tìm hiểu về giáo lý Phật học, hay học Phật pháp để tu sẽ giúp cho người Phật tử thấu hiểu những gì mà mình xưa nay chưa biết, suy nghiệm chưa ra lẽ, hoặc chưa được nghe Thầy thuyết giảng hoằng hóa.

Quyển “Một trăm ngày niệm Phật & một trăm bài pháp” được chia thành hai tập: tập I sẽ ấn bản vào cuối thu năm Canh Dần (2010), tập II sẽ ấn bản vào cuối mùa thu năm Tân Mão (2011).
Ơ tập I nầy, chúng tôi biên soạn chia thành 18 chương, với 50 bài pháp, mỗi bài pháp ứng với một ngày niệm Phật, xem hết năm mươi bài pháp, tức là dự khóa niệm Phật đã đến ngày thứ năm mươi rồi. Các bài pháp trong mỗi chương đều có những ý tưởng Phật pháp liên tục, cung cấp thứ tự bài cho Phật tử liên hữu từng đẳng cấp đọc học từ thấp lên cao, quá trình tu hành hiểu rõ ràng tánh tướng, có không, thực có thực không, thấu tình đạt lý.
Đức Bổn sư Thích Ca và chư vị Tổ sư Tịnh độ từng tuyên thuyết: "… nếu chúng ta chỉ dùng tự lực để liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh thời rất khó đặng. Có một pháp môn tự lực nương tha lực rất viên đốn, rất huyền diệu, dễ thực hành mà thành công cao, dùng sức ít mà mau có hiệu quả, chính là pháp môn niệm Phật Tịnh độ cầu vãng sanh…”

Nhiều vị Phật tử liên hữu xưa nay gọi là “Phật tử liên hữu” nhưng chưa thông suốt giáo lý, thậm chí chưa hiểu đến “pháp tu” mà mình đang tu học xuất phát từ đâu? Do các vị chưa từng được hướng dẫn học Phật pháp, nay có duyên được học Phật pháp. Tất cả những nghi ngờ về đạo Phật, về giáo lý Đức Phật, về pháp môn niệm Phật, về Liên tông Tịnh độ Non bồng… sẽ được hiển bày rõ ràng khúc triết, tạo cho người đọc không còn thấy mình xa lạ với Phật pháp nữa.

Tống Cao Tăng truyện, ghi lời Đức Văn Thù Sư Lợi dạy:” Nếu thiện nam tín nữ nào nguyện mau thành Phật không gì qua tu môn “niệm Phật”, niệm Phật thời có thể mau chóng chứng quả bồ đề”. Trong pháp giáo Đường Về Cực Lạc của Hòa thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, trang 18 có bài xương minh về Tịnh độ, ghi lời trong sách Ấn Quang văn sao nói:” Chín giới chúng sanh rời pháp môn nầy không thể tu thành Phật, Mười phương chư Phật bỏ pháp môn nầy không thể độ chúng sanh”. Các bậc Đạo Sư, Thầy Tổ xưa nay, cũng như Đức tôn sư Tịnh độ Non bồng cũng rất ưu tư về việc tu hành của những người con Phật mà luôn sẵn sàng truyền bá pháp môn tu.
Tịnh Độ tông cũng chính là giáo lý nhà Phật là môn học có nền tảng vững vàng, nhưng cũng cực tắc, thực dụng giúp cho người đọc học dễ tu, những Phật tử liên hữu có tâm ý từ bỏ học tập giáo lý Phật như “rùa mù tìm bọng cây giữa biển khơi” gọi bọng cây là bờ, từ bờ khổ mà vào bến khổ; rồi lầm tưởng cho rằng mình là Bồ tát “chịu khổ thế cho chúng sanh”.
Người tu mà từ chối không học giáo lý Phật, thì cứ như “người mù rờ voi”, chẳng biết voi là gì? Người Phật tử hằng ngày dành quá ít thời gian tham học Phật pháp, hoặc không học giáo lý Phật học thì tu hành cả đời chỉ có “võ đoán việc Phật pháp mà thôi”. Tuy cũng làm Phật tử hai mươi năm, ba mươi năm nhưng mà chẳng biết Phật pháp là gì, sinh hoạt của chùa nơi mình quy y ra sao, thật quá tiêu phí công lao quy y Phật!

Có người nói tu tâm, cứ lo tu rồi Phật cho biết pháp Phật như thế nào, lại dùng câu”ngoại giáo biệt truyền bất lập văn tự” của Thiền tông mà truyền bá; câu nầy là của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, cũng như của các bậc Đại đạo sư thiền tông bên Trung hoa đã đắc đạo rồi như Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Lục tổ Huệ Năng mới công bố sử dụng; hoặc câu “không tu, không chứng, không đắc…” cũng thế… thật rất đau lòng cho đời mạt pháp! Họ đâu có hay rằng các bậc Tôn giả, Trưởng lão, Tổ sư, Tôn túc xưa là bậc đắc đạo rồi đó, mà vẫn:”Thật vì sanh tử phát bồ đề tâm, dùng tín sâu nguyện thiết mà chuyên trì hồng danh A Di Đà Phật” (pháp giáo Đường Về Cực Lạc của Hòa thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, trang 19)

Mỗi ngày niệm Phật là học một bài pháp, được thiết lập bố cục theo tình tiết:”Cư sĩ vấn, Nhà Sư đáp”, cú văn thực tiển, dễ hiểu, nghĩa lý sáng tỏ. Rất mong quyển sách nầy đến với quý Phật tử để làm quà tặng”gối đầu giường” trong những ngày tham dự niệm Phật và cũng là hành trang trọn đời phát nguyện tu Tịnh độ niệm Phật.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Đồng Nai, Việt Nam,cuối mùa Thu, năm Canh Dần
(14/10/2010)
Hòa Thượng Thích Giác Quang

Một trăm ngày niệm Phật
& Một trăm bài pháp
***

PHẦN I
Pháp môn niệm Phật lợi ích ba căn
&&&

CHƯƠNG THỨ NHẤT

1 . NGÀY THỨ NHẤT:
Danh xưng pháp môn niệm Phật

* Bạch Sư! Chúng con nghe quý Giảng sư thuyết giảng: “pháp môn Tịnh Độ khế cơ và khế lý trong từng thời đại, là pháp môn dễ tu dễ chứng, phù hợp với mọi căn cơ trình độ chúng sanh, nhất là đối với những vị sĩ, nông, công, thương, các thành phần trong xã hội. Người độn căn lợi căn đều có thể tu niệm Phật được; bậc thượng căn nghiệp dứt tình không, bậc hạ căn chướng sâu tội nặng đều có thể phát tâm tu hành không trở ngại. Tuy nhiên chúng con là người có biết pháp môn tu, nhưng chưa quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới cấm có thể tu niệm Phật được hay không…?”
* Quý Thầy giảng Tịnh Độ rất kỹ, không bao giờ dùng từ ngữ Phật học pháp môn Tịnh độ, mà dùng cụm từ “pháp môn niệm Phật” Tịnh độ tông.
Thật sự pháp môn niệm Phật dễ tu dễ chứng, phù hợp với quảng đại quần chúng, nhất là quần chúng của thế kỷ hai mươi mốt, một thế kỷ mà mọi người phải vật vã lo toan cho cuộc sống; lo ăn lo mặt, lo cho gia đình, cho xã hội. Gần như là con người trên hành tinh không còn và không có thời gian để trở về với nội tại tâm linh. Cho nên vấn đề tu Phật là điều cần tìm hiểu và tìm một lối thoát cho người muốn tu học Phật, lo cho con đường về của mình, có một lối thoát khả dĩ, hóa giải những căng thẳng hằng ngày xâm lấn làm tiêu hao nội lực, tâm linh lu mờ, làm cho con người mau cằn cỗi, mau già đi với thời gian và trong không gian thu hẹp.
Pháp môn niệm Phật là pháp môn có thể áp dụng hằng ngày, hằng giờ xen kẽ vào đời sống vật chất, trong đó có thời gian nghỉ ngơi, thời gian dành cho cuộc sống, thời gian dành cho hơi thở điều hòa, một chút thời gian ấy chính là thời gian mà con người dành riêng cho cá nhân cuộc sống, chính là cuộc sống tâm linh, chính là hơi thở của cuộc đời.
Cần trích quỹ thời gian từ hai mươi đến ba mươi phút niệm Phật, niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, niệm danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát. Chính những giây phút ấy, những phút giây hiện tại, những phút giây trở về với thực tại, hít thở không khí vũ trụ phi thời gian, ngắm nhìn không gian, nhìn về thế giới của vô biên, của bao la, sự hoan hỉ của thế giới Cực lạc như Đức Phật Thích Ca đã diễn đạt giới thiệu thế giới Cực lạc trong kinh A Di Đà: “thế giới không có khổ, chỉ toàn là những điều vui, nên gọi là Cực lạc…”
Pháp môn niệm Phật, niệm A Di Đà, ai cũng tu được, người quý phái người bình dân, từ chúng sanh bậc thượng căn đến chúng sanh phiền não nghiệp chướng sâu nặng đều tu được, không bị trở ngại, thậm chí đến người chưa giác ngộ, người chưa biết Đạo Phật, cũng đều phát tâm niệm được, nếu người ấy phát tín tâm muốn niệm.
Huống chi nói đến người chưa quy y Tam Bảo. Người chưa quy y, chứ không phải không quy y. Người chưa quy y vẫn niệm Phật được, nếu có cơ duyên Phật pháp, niệm Phật rồi sau đó phát tâm quy y cũng không muộn; niệm Phật là quy y tánh đấy.
Như vậy người chưa quy y Tam Bảo vẫn niệm Phật được. Tuy nhiên sau đó sẽ quy y và gần gũi Phật Pháp, học Phật Pháp. Niệm Phật thanh tịnh thuần thục pháp lành sanh khởi. Pháp lành là phát tâm quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới cấm, muôn đời sống trong chánh pháp.
Trong bộ Tỳ Bà Sa Luận của ngài Tổ sư Long Thọ, Thánh tổ Tịnh Độ tông có trứ tác bài phát nguyện, dành cho những người có tín tâm phát nguyện niệm Phật và xưng tán Đức Phật A Di Đà, như sau:

Nếu ai nguyện làm Phật
Tâm niệm A Di Đà
Phật liền hiện thân đến
Cho nên tôi quy mạng
Do bổn nguyện của Phật
Nên thập phương Bồ tát
Đến cúng dường nghe pháp
Vì thế tôi cúi đầu
Bồ tát ở Cực lạc
Thân xinh đẹp trang nghiêm
Đủ cả các tướng hảo
Nay tôi quy mạng lễ
Bồ tát ở Cực lạc
Ngày ngày trong ba thời
Cúng dường thập phương Phật
Nên tôi cúi đầu lạy
Nếu người trồng căn lành
Nghi thì hoa không nỡ
Người tín tâm thanh tịnh
Thời hoa nỡ thấy Phật
Hiện tại thập phương Phật
Vì muốn độ chúng sanh
Mà ca tụng Di Đà
Nên tôi quy mạng lễ
Cõi đó rất trang nghiêm
Thanh tịnh hơn thiên cung
Công đức rất sâu dầy
Nên tôi lạy chơn Phật

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo
2 . NGÀY THỨ HAI:

Mọi giới đều niệm Phật

* Bạch Sư! Chúng con nghe bạn bè truyền đạt lại là:”pháp môn niệm Phật chỉ dành cho giới cư sĩ phát tín tâm tu hành, ăn chay niệm Phật, làm lành lánh dữ vậy thôi. Những suy nghĩ nầy có đúng không? Xin Sư từ bi hoan hỷ giảng giải?
* Thật ra thì nền đạo đức của Đức Phật, trước tiên bao giờ cũng cân nhắc cho người Phật tử khởi tín tâm lánh dữ về lành, làm lành lánh dữ, thương người, cứu người, cứu vớt người khổ, người đang trong vòng lao lý của cõi sanh tử luân hồi.
Có điều là mọi người phải có chút ít tâm giác ngộ, ý tứ tự giác, tưởng niệm Đức Phật dù là Phật A Di Đà hay Phật Thích Ca, nhất là Quán Thế Am Bồ Tát.
Trong giáo pháp Đức Phật Thích Ca thường cân nhắc chúng sanh làm lành, vì làm lành tức là gieo nhân tốt, gieo nhân tốt thì hưởng quả tốt là điều kiện tất yếu mà giáo lý Đức Phật hằng khuyến giáo. Cũng rất phù hợp với pháp vô sanh, bất sanh bất diệt. Ac không sanh thì không cần diệt ác đi tìm thiện, mà làm thiện…”. Cũng như nói tam nghiệp không khởi ác, làm ác thì không có gì phải giữ giới, vì đấy chính là giới và giữ giới. Mục tiêu hoằng giới của Đức Phật chính là ở chỗ nầy: "giữ giới như vậy chính xác hơn”.
Trở lại với pháp niệm Phật: niệm Phật, niệm danh hiệu Phật A Di Đà thì ai mà niệm không được, người ở trong chỗ tam đồ (thủy đồ, hỏa đồ, đao đồ), bát nạn (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đui, điếc câm ngọng,bắc-câu lô-châu, trường thọ thiên, thế trí biện thông, sanh trước và sau Phật) nếu còn có chút ít tín tâm thì được hướng dẫn niệm Phật. Người câm thì nhìn Phật cũng là niệm Phật; người điếc thấy Phật cũng là niệm Phật, người già ngồi niệm Phật không kham, thì nằm nghe máy niệm Phật cũng là niệm Phật; người sắp trút hơi thở cuối cùng được bạn lành trợ lực niệm Phật cũng được đới nghiệp vãng sanh. Người lâm nạn biết hướng về Phật cũng được gần Phật thoát hóa; trường hợp người lâm nạn thì đâu luận là cư sĩ hay Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, tại gia hay xuất gia lâm nạn, người có căn lành hay không căn lành, người đã quy y hay chưa quy y Tam Bảo… nếu biết phát tâm xưng niệm Phật thì cũng có cơ duyên được Phật tế khổ.
Thế nên pháp môn niệm Phật, Tịnh độ tông thuộc bồ tát tạng nhiếp cả ba căn thượng trung hạ. Người nghiệp dứt tình không, căn khí thông lanh thì gọi là thượng căn. Người tâm chí hay lui sụt, kém hèn, nghiệp lực dẫy đầy, si mê biếng nhác gọi là hạ căn… gọi chung cũng là nghiệp lực chúng sanh. Các loại nghiệp lực chúng sanh trên dù ở phương trời nào, nếu chí tâm niệm Phật cũng đều được nhiếp thọ vãng sanh.
Trong sách Phật học Tinh hoa của Thu Giang Nguyễn Duy Cần, có nhắc đến câu nguyện:”chàng đạo sĩ trẻ tuổi gặp Phật…”.
- Một ngày nọ, vào buổi chiều vị đạo sĩ trẻ tuổi dừng bước chân du phương trì bình khất thực, ghé vào một lò gạch địa phương xin tạm trú ngụ qua đêm. Cùng thời gian ấy, Đức Thế Tôn cũng xuất hiện, ghé vào lò gạch cũng để trú ngụ qua đêm, gặp vị đạo sĩ trẻ tuổi, Đức thế tôn gạn hỏi:
- Vị Đạo sĩ trẻ tuổi đáng quý ơi! Anh từ đâu đến đây, là đệ tử của ai, tại sao lại mặc pháp y nhà Phật, đi du tăng khất thực, Anh là đệ tử của ai, vị nào là Thầy của Anh?
- Bạch Ngài! Tôi là nhà du tăng khất sĩ, nghe danh Đức Thích Ca Mâu Ni mà phát tâm tu theo Đạo của Ngài, hiện tôi đang theo học Đạo của Ngài, chính Ngài là Bổn Sư của tôi.
- Đức Thế Tôn vui lòng, chấp nhận vị đạo sĩ trể tuổi thông thái, Ngài nói:”nếu trường hợp Anh gặp được Bổn sư của Anh thì sao? – Gặp Phật thì tôi xin gieo năm vóc kính lễ và bước chân theo Ngài, vì từ trước đến giờ, tôi chỉ nghe danh của Ngài mà tu hành, nay nếu gặp Ngài tôi sẽ đảnh lễ và đi theo Ngài cầu học đạo giải thoát.
- Ta là Phật, Thầy của Ông đây!
- Vị đạo sĩ trẻ quỳ sụp lạy xin quy y, đi theo Đức Thế Tôn du hóa tu hành và đắc quả vô sanh A La Hán.
Chưa gặp Phật, chưa biết Phật, ở xa Phật kể cả không gian và thời gian mà vị đạo sĩ trẻ tuổi phát tín tâm tin tường, còn tu hành hiệu quả như thế, huống chi chúng ta phát tâm học Phật, cầu đạo giải thoát, chí tâm niệm Phật thì làm gì không được kết quả thành công.
Thế nên, khi người phát tín tâm tu niệm Phật thì được Phật nhiếp thọ, nếu là được nhiếp thọ thì dù tu sĩ xuất gia hay tại gia cư sĩ cũng đều được gần Phật, thấy Phật. Nhiếp thọ cũng chính là ngự phục (hàng phục) được các căn si cuồng, tham ái, sân hận, phú não… chìm đắm trong sanh tử.
Nhiếp thọ làm cho nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, khẩu, ý lặng trong sáng suốt, ngự phục làm cho nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, khẩu, ý dũng mãnh tinh tiến. Hạnh nhiếp thọ và ngự phục không chỉ giới hạn dành cho giới tu hành tại gia, mà cho cả giới xuất gia. Người tại gia thì giữ giới của người tại gia (nếu đã thọ giới cấm); người xuất gia thì giữ giới của người xuất gia (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni…). Giữ giới làm cho tam nghiệp thanh tịnh, xem chừng nghiệp lực chúng sanh không dấy sanh đấy là ngự phục. Niệm Phật thì nhiếp hóa thân khẩu ý chuyển phàm thành thánh, cả hai đều có ý nghĩa tĩnh tu; tĩnh tu thì không phân biệt xuất gia hay tại gia. Tĩnh tu chính là quá trình tu chứng, công phu tịnh niệm. Người tĩnh tu tức là người giác ngộ, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm hơi thở ra, niệm hơi thở vào, niệm thân, niệm chết…
Tu học từ pháp môn niệm Phật, Tịnh độ tông làm cho các liên hữu hành giả phấn khởi ở chỗ:”người xuất gia tu chứng theo người xuất gia, người tại gia tu chứng theo người tại gia. Nói cách khác, thì người xuất gia tu thành Phật theo phẩm hạnh cung cách người xuất gia, người tại gia tu thành Phật theo phẩm hạnh cung cách người tại gia. Đấy chính là giáo lý bình đẳng lợi tha của nhà Phật, rất công tâm và trực tâm.
Vã lại trong pháp hội Tịnh Độ, tại kinh đô Xá Vệ, khi thuyết pháp đề tài Tịnh Độ, Đức Phật Thích Ca có giới thiệu về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà và nói về nhân hạnh Đức Phật A Di Đà, tuy bản kinh không có ai hỏi mà do đức Phật tự nói, nhưng nói cho các vị Bồ tát, cho 1250 vị Thinh văn (Thinh văn tức là đại đệ tử chính thức của Đức Phật thuộc vào hàng xuất gia), rồi mới nói đến chư vị Cư sĩ, bát bộ thiên long, các bộ chư Thiên, các chúng sanh khác trong mười phương đều đến thính pháp văn kinh.
Từ trước đến đây là một trong những hành trình tu chứng của người Thích Tử, không phân biệt tại gia hay xuất gia, trong các hành trình tu chứng, trong đó có pháp niệm Phật. Chẳng lẽ ngày nay người đệ tử đức Phật lại thay đổi lời Phật dạy trong kinh A Di Đà thuyết tại kinh đô Xá Vệ xưa, đem pháp môn niệm Phật sắp xếp lại để dành cho người tại gia tu hành? Vậy còn người xuất gia tu pháp nào? Thật không có lý do trên!
Ngài Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát dạy:”Pháp môn niệm Phật Tịnh độ thật là tâm tông của chư Phật. Là con đường đi đến quả vị giải thoát tắc nhứt của mọi người tu…” (Đường về Cực lạc, trang 118).
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

PHẦN II
Phật tử phải thọ quy giới
&&&

CHƯƠNG THỨ HAI

3 . NGÀY THỨ BA:
Liên Hữu Tịnh Độ vẫn phải thọ quy giới


* Bạch Sư! Chúng con muốn xin quy y, nhưng trước khi thọ pháp quy y chúng con muốn hiểu về ý nghĩa Tam Quy Ngũ giới. Tại sao làm con Đức Phật phải quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới cấm. Chỉ xin quy y Tam Bảo được không? Có người nói chỉ thọ giới tâm, không thọ giới tướng?

* Đức Phật dạy, ba cõi không yên, như ở trong nhà lữa. Chúng sanh muốn xa lìa cõi khổ, thì phải nương về ngôi Tam Bảo. Người muốn thoát khỏi những sanh tử khổ đau nơi bến sanh tử luân hồi, không thể bỏ qua sự việc thọ trì giới pháp mà được. Giới như chiếc bè báu đưa người qua bể khổ, giới như đất bằng phẳng, muôn vật đều từ đấy mà phát sinh, giới như ngọn đèn sáng, chiếu phá các chỗ tối tăm, giới là con đường tắt đưa đến cõi nhơn thiên, là cửa ngỏ vào cảnh giới Niết Bàn. Cho nên trong kinh nói rằng: nếu có chúng sanh nào muốn dứt trừ các khổ, hưởng sự vui vô thượng Niết Bàn, thì phải thọ trì Tam Quy và ngũ giới cấm. Nếu người nào giữ giới được thanh tịnh, cho đến trong giây phút quy y Tam Bảo, ở đời vị lai cũng được chứng quả Niết Bàn.
Giới là một bằng chứng, là báu vật cụ thể nâng phẩm chất giá trị con người trong quá trình tu chứng, quá trình đi trong đạo giới nhà Phật, là cương lĩnh duy nhất khu phân giữa thế gian và giải thoát thế gian; giới cũng khẳng định cho chánh pháp Phật, nên giới luật Phật còn lưu lại tại thế gian thì chánh pháp Phật còn, giới luật Phật mất thì chánh pháp mất. Nên người tu Phật dù tại gia hay xuất gia đều phải nương nhờ giới pháp để khẳng định bản lĩnh tu hành của Nhà Sư, thọ trì giới pháp để khẳng định người tu đúng chánh pháp Phật. Người tu không thọ pháp quy y Tam Bảo, không thọ các giới để khu phân cương lĩnh tu hành, thì người đó tu hành không đúng chánh pháp Phật.
Giới là diệu dược phương thang, để trị lành các chứng bệnh nan y tham sân si của thế gian, người tu không thọ giới như người bệnh không muốn tìm Thầy thuốc chữa bệnh, làm Thầy thuốc không biết bốc thuốc chữa trị bệnh nhân, nên người ấy phải mắc bệnh trầm kha muôn đời, và đi đến cõi chết lặng trong khổ đau.
Trong nhà Phật, chư Đại sư hoằng giới, trước khi truyền giới cho tín đồ, thì vị giới sư dạy đệ tử phải phát lồ sám hối cho thân tâm được thanh tịnh. Cũng như muốn chứa đựng vị cam lộ trong cái bình, trước phải súc bình cho thật sạch. Còn người khi thọ quy giới, trước cần phải sám hối trừ phiền não cho tâm được thanh tịnh, mới có thể lãnh thọ quy giới thanh tịnh.
Tuy nhiên trước khi làm lễ sám hối, người tín đồ Phật giáo cần phải hiểu ý nghĩa sám hối là gì?
Sám là sám ky tiền căn, có nghĩa là ăn năn lỗi lầm đã tạo, hối kỳ hậu quá, tự thú tội ra, chừa bỏ các lỗi đã làm, chẳng những sám hối các tội lỗi trong một đời, mà cho đến các tội nhiều kiếp về trước cũng cần phải sám.
Hối nghĩa là hối hận, biết rõ ràng những lỗi lầm mà người sám hối sẽ sửa đổi lại cho trở nên tốt. Cải sửa những cái xấu ác, mà thực hành những pháp thiện lành.
Ví như việc uống rượu, rượu là thức uống làm cho con người say sưa điên đảo, rối loạn tâm thần, rượu cũng là một phần lễ nghĩa của gia đình xã hội, con người tự ngàn xưa dùng rượu đãi nhau nói lên lễ nghĩa mà đãi bạn, rượu cũng là thức uống bổ dưỡng, làm thuốc chữa bệnh, làm vui cửa vui nhà, vui xóm vui làng, bạn bè đãi nhau, thân nhau qua chun rượu, uống rượu để giải sầu, rượu là nguồn vui của những người thích tiêu dao non cảnh. Tuy nhiên, xưa nay đại đa số hành động của người uống rượu trở thành một tập tính xấu, thường là làm việc ác, làm mất nhân phẩm đạo đức gia đình, nhân cách bản thân, tự thân uống rượu đã là xấu ác; đối với tha nhân thì lúc nào cũng làm khổ vợ khổ con, động làng động xóm, gia đình tan nát. Cũng có khi con người dùng rượu để giải quyết một vấn đề như: sát hại lẫn nhau, nói xấu chửi bới lẫn nhau… Nhưng khi người nghiệm rượu biết sám hối tội ác do uống rượu làm tổn hại xã hội, họ phát tâm không uống nữa, từ đó môi trường gia đình trở nên an lạc, ổn định hạnh phúc, xã hội vui tươi.
Người tĩnh thức không uống rượu, thường là được gặp nhà Phật khuyên giải, họ nghe theo và được gần Phật Pháp, họ phát tâm thọ pháp quy y, sám hối các lỗi lầm, trở thành người tín đồ Phật giáo. Khi sám hối, các tín đồ phải đọc như vầy:
Đệ tử chúng con kể từ vô thỉ cho đến ngày nay, lỡ tạo những điều tội lỗi, ngày hôm nay thành tâm sám hối, thề tránh các điều dữ, nguyện làm các việc lành, cúi xin Tam bảo từ bi gia hộ, khiến cho đệ tử chúng con tội diệt phước sanh, căn lành thêm lớn, tai qua nạn khỏi, tật bệnh tiêu trừ, hiện tiền phước huệ trang nghiêm, một hậu sanh về cõi Phật. Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát ma ha tát. Hoặc có thể đọc bài thi kệ:
Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham sân si
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối
Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát ma ha tát.
Tội lỗi đã làm từ trong muôn vạn kiếp, một khắc sám hối thì không thể hết.
Đối với người thiếu niềm tin thì không bao giờ chấm hết tội lỗi.
Tuy nhiên, do trong một niệm của chúng sanh có 4.900.000.000 (bốn tỷ, chín trăm triệu) lần sống chết, cũng tức là sống 4.900.000.000 kiếp (Phật Học tinh hoa - tác phẩm của Thu Giang Nguyễn Duy Cần). Nay do người khởi tâm thanh tịnh, không vọng niệm phát sanh, khởi tâm tốt mà sám hối; do trong một niệm thanh tịnh (chánh niệm) mà tiêu trừ tội lỗi trong ba đời quá khứ, hiện tại và vi lai. Xưa một kiếp làm tội lỗi, nay một kiếp tu hành thì lỗi ấy ắt tiêu tan; xưa nhiều kiếp làm tội lỗi, nay nhiều kiếp tu hành thì chắc chắn thành tựu viên mãn, lỗi lầm cũng không còn. Lời của Phật Pháp là chân thật ngữ.
Tiện đây, xin giới thiệu một vài cách tu hành sám hối thù thắng khác, sám hối lỗi lầm có nhiều cách,như Đại lão Hòa Thượng Thích Thiện Hoa đã từng giảng, sám hối bằng tâm niệm:

Nôm:
Tội tùng tâm khởi tùng tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệt vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị đắc danh vi chơn sám hối.

Nghĩa:
Tội do tâm khởi cũng do tâm sám
Tâm không có thì tội ấy cũng không còn
Tội không còn tâm cũng không có
Đây mới thật sự là sám hối tội lỗi.

Ngoài ra còn có những cách khác như là:

- Thủ tướng sám hối (tự sám hối, ăn năn lỗi lầm cho đến khi thấy Phật xuất hiện trên đỉnh đầu thì thành tựu pháp sám hối)
- Hồng danh sám hối (lạy 89 danh hiệu Phật trong kinh Hồng Danh Bửu Sám từ Nam mô Phổ Quang Phật… đến… Nam mô Pháp Giới Tạng Thân A Di đà Phật)
- Phát lồ sám hối (tự phát tâm sám hối trước Phật, trước Thầy Bổn sư)… mỗi mỗi cách đều có hiệu quả dành cho người tu Phật dành cho người tu thâm niên hay mới tu đều có thể thực hiện được.
Bạch sư! Nghe lời sư dạy, chúng con đã hiểu tường tận thế nào là sám hối hết tội, rất phấn khởi tin tưởng và phát lòng tự tin thành tâm sám hối, chúng con sẽ cùng gia đình thân bằng quyền thuộc, cùng các bạn thân sẽ đến Tu Viện xin thọ pháp quy y nhà Phật vào ngày rằm tháng bảy năm nay.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

4 . NGÀY THỨ TƯ:

Ý nghĩa Tam Bảo và quy y Tam Bảo

* Bạch Sư! Chúng con đã hiểu tại sao tín đồ Phật giáo phải quy y, làm lễ quy y. xin Sư giảng giải ý nghĩa quy y Tam Bảo?

* Phàm làm người trong thế gian, thế gian là khoản cách giữa Đời và Đạo, giữa những người tu Phật và những người không tu Phật, những người chưa phát tâm tu Phật, khi làm việc gì cũng phải cân nhắc chuẩn bị kỹ lưỡng rồi mới thực hiện công việc. Vấn đề quy y Tam Bảo là việc trọng đại trong đời nhất là đời người. Bởi vì người ấy được Nhà Phật truyền trao một nhân cách sống giữa con người và con người, giữa con người và xã hội, gia đình, tập thể, quần chúng, công đồng. Đào tạo con người bằng chính năng lực của mình để thay đổi môi trường sống, chuyển hóa từ thế giới ta bà khổ đau thành thế giới an lạc thanh tịnh vui tươi.
Cho nên trước khi quy y Tam Bảo thì quý vị đã sám hối cho thân tâm trong sạch rồi, thân có trong thì ánh sáng chân lý hiển lộ, tâm có sạch thì trí tuệ hiện bày, có thể quyết định được cuộc đời, thay đổi được môi trường sống của đời người, làm cho thọ mạng con người trường cữu thêm lên.
Trước khi quy y Tam Bảo, người tín đồ Phật giáo cần phải biết rõ ý nghĩa quy y là gì?
Quy y nói cho đủ là quy y Tam Bảo, quy là trở về, y là nương tựa; Tam Bảo là ba ngôi Phật Pháp Tăng. Quy Tam Bảo là trở về nương tựa Phật Pháp Tăng. Chúng ta đã nhiều đời nhiều kiếp, say mê lầm lạc, trôi nổi giữa biển đời mênh mông không định hướng, nay cần phải quay về với chánh pháp, nương về Tam Bảo, quy hướng cội nguồn. Người đời nương tựa với cha mẹ, vợ chồng, anh chị em bầu bạn thì không hòan tòan an lành; sống thì gọi chung thỉ chân thành với nhau, thuộc về ruột rà thân thích, nhưng đến khi trút hơi thở cuối cùng thi biệt ly, đường ai nấy đi, không còn che chở cho nhau như thời sinh tiền xuân sắc nữa, nên gọi không hòan tòan an lạc. Nên phải nương về với Phật là một đấng từ bi bình đẳng, như vị cha lành,. Nương tựa với pháp là phương pháp giải khổ, như thuốc hay chữa lành bệnh tật. Nương tựa với Tăng là bậc đại trí, hoằng pháp lợi sanh, mới thật là hòan tòan an lành.
Phật Pháp Tăng nghĩa là gì? Phật, theo tiếng Pali là Buddha, Trung Hoa dịch là Phật-đà, gọi tắt là Phật, có nghĩa là người giác ngộ, là đấng giác ngộ hòan tòan, tòan năng, tòan trí, tòan giác, Ông cha lành của muôn lọai chúng sanh, đạt đến chổ chân thiện mỹ. Phật cũng là bậc đại đạo sư của pháp giới mười phương. Phật cũng là đạo hiệu chung cho tất cả những bậc tu hành đã giác ngộ. Phật cũng là một đức hiệu trong mười đức hiệu: Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật thế tôn.
Pháp nghĩa là gì? Pháp là khuôn phép, khuôn thước, mẫu mực, chính là những lời của Đức Phật Thích Ca chỉ dạy. Nếu mỗi người, mỗi chúng sanh y theo giáo pháp của Phật mà tu hành thì quyết định sẽ thóat ly sanh tử, chứng thành Phật quả. Cho nên trong Kinh nói rằng:”Pháp là mẹ sanh ra chư Phật”.
Tăng nghĩa là gì? Tăng nói cho đủ là hòa họp Tăng già, một một tập thể có từ bốn người trở lên, bốn người nói ở đây là bốn vị Tỳ kheo, bốn vị tu sĩ đệ tử của Đức Phật, bốn nhà sư thành viên của Tăng đòan, sống hòa hợp không chống trái lẫn nhau, tâm nhiều người như một, tuy hai mà một, như nước hòa với sửa. Tăng là những người đứng trung gian giữa Phật và chúng sanh, thực hành những lời chỉ dạy của của Đức Phật và thay mặt Đức Phật, diễn nói những pháp giải thóat sanh tử luân hồi, giải thóat những khổ đau phiền não, có tình có lý, có sự có lý cho mọi người tu học.
Tăng là một đức hiệu trong tổ chức của những người đệ tử của Đức Phật,bên xứ Tây Vức, dù người có đạo hay không có đạo, dù không phải đệ tử của Phật, nhưng người ta vẫn có cách sống thành từng nhóm, nhóm của những người ở thế gian cũng gọi là Tăng (nhóm bốn người), tuy nhiên nhóm bốn người nầy là người ngòai đời, không có tu hành, không có học đạo giải thóat của Phật và không giải thóat được những khổ đau phiền não quả báo ở thế gian. Tăng già của Phật là những người học đạo giải thóat, là những bậc được thọ ký “thiện lai Tỳ kheo”, râu tóc đã rụng, sống có nề nếp kỷ cương, tinh nghiêm chuyên trì giới luật, hoằng hóa giới hạnh đi trong nhân gian, phiền não không còn, không còn vướng bận việc thế gian, Tăng già là đòan người bước đi ngược lại thế gian, hướng về cố quán, hành trình đến Niết bàn hay Tây phương Cực lạc… do sống có tổ chức nên gọi là tăng già, Tăng đòan.
Tam Bảo theo nghĩa của Tịnh Độ, giảng giải như sau:
Phật hay Phật đà: Một Đức Phật hoặc tất cả chư Phật, nghĩa là bậc đại giác, đại ngộ, bậc hiểu biết tất cả, gọi là nhất thiết trí.
Pháp hay gọi là Đạt ma: Giáo pháp mà Đức Phật đã thuyết.
Tăng hay Tăng già: Tăng chúng, Tăng đòan, những vị xuất gia tu học giáo pháp của Phật, cùng hòa hợp nhau, chung cùng nhau mà tu học.
Đọc trọn là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Như nói, quy y Tam Bảo là nương mình theo Tam Bảo, hướng về Tam Bảo Phật Pháp Tăng, Tam Bảo là cội nguồn của người tín đồ đệ tử Đức Phật.
Về sự nghĩa là: gởi thân nơi Đức Phật, vào Đạo Phật, vào Tăng đòan của Phật.
Về lý, nghĩa là: Nương theo đức giác ngộ có đủ Phước và Huệ, nương theo sự chánh, không theo tà kiến, nương theo đức tịnh, không nhiễm trước, không chấp nê. Như vậy Phật tức là Giác, Pháp tức là Chánh, Tăng tức là tịnh.
Có ba thứ Tam Bảo:
* Đồng thể Tam bảo (ba ngôi quy báu đều như nhau):
1/. Phật: Lý chơn như tự tánh khai giác
2/. Pháp: Đức dùng phải lối, đúng phép, tự tánh chân chánh
3/. Tăng: Cử động không trái, không tranh, tự tánh thanh tịnh
* Xuất thế Tam Bảo (ba ngôi quý ra khỏi thế gian):
1/. Phật: Pháp thân, báo thân, hóa thân
2/. Pháp: bốn đế, mười hai nhân duyên, sáu độ
3/. Tăng: Các vị thánh hiền chứng đạo, đắc quả
* Thế gian Trụ Trì Tam Bảo (ba ngôi báu ở thế gian):
1/. Phật: Tượng cốt, hình vẽ trên giấy, khánh thờ
2/. Pháp: Quyển vàng, cuốn đỏ, kinh in ở tại nhà in
3/. Tăng: Nhà sự thọ Tỳ kheo, thọ giới theo pháp thập nhân thọ, có đầy đủ tam sư thất chứng. Nói khác:”đầu tròn áo vuông”.
Trong sách Lục Đạo Tập nói: thế gian đều gọi châu ngọc là bảo, quý báu, nhưng đó chỉ là vật để xem chơi mà thôi chớ đâu có ích gì.
Còn chúng sanh biết quy y Phật thì khỏi đọa vào địa ngục, biết quy y Pháp thì khỏi đọa vào ngạ quỷ, biết quy y Tăng thì khỏi đọa vào súc sanh. Công đức của ba ngôi báu như vậy, nên gọi Phật Pháp Tăng là Tam Bảo.
Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật dạy: Phật Pháp Tăng ba ngôi ấy đều như sau (vô hữu sai biệt). Tánh tướng của Tam Bảo là: thường, lạc, ngã, tịnh.
Bạch Sư! Chúng con đã hiểu tại sao người tín đồ phải quy y Tam Bảo và hiểu rõ ý nghĩa Tam Bảo, chúng con xin nhất tâm đảnh lễ.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

5. NGÀY THỨ NĂM:

Tín đồ Phật tử quy y Tam Bảo

Bạch Sư! Chúng con có một đôi lần chứng kiến Sư tác pháp lễ quy y cho tập thể tín đồ Phật tử, nhất là ở Quan Âm Tu Viện, mỗi lần tác lễ có đến 400 đến 500 Phật tử xin đăng ký quy y do Sư thay Sư Bà thuyết giảng và truyền giới. Chúng con nhận thấy sự lý quy y quá ư là kỹ. Xin Sư chỉ dạy cho chúng con? Chúng con xin quy Tam Bảo?

Quy y là sinh họat linh động nhất chốn thiền môn đối với người Phật tử, vì khi chưa quy y người Phật tử được gọi là Phật tử tín đồ; nhưng sau tác pháp lễ quy y người tín đồ Phật tử phát tâm thọ pháp Tam quy rồi họ sẽ trở thành người Phật tử bổn đạo của Chùa ấy, suốt đời gắn bó với chùa mình đã quy y, kể cả con cháu, hậu duệ của người Phật tử đó từ đời nầy sang đời khác cũng đều là Phật tử bổn đạo của chùa.

Có sáu thứ bậc Phật tử:

* Thứ nhất: Phật tử bổn đạo là những người Phật tử đã có thọ pháp quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới cấm (không sát sanh - không trộm đạo - không tà tịnh hạnh - không nói dối, khoe khoang, đâm thọc, rủa sả - không uống rượu tham lam sân giận, si mê) từ đời nầy sang đời khác, cả dòng họ luôn gắn bó hộ trì nơi chùa đã quy y. Trường hợp có đi lễ nơi chùa khác là do người Phật tử ngày nay thường phát tâm đi hành hương nhiều chùa, gọi là đi cúng thập tự, cúng thập nhị tự cầu an cho ông bà cha mẹ tại tiền, cầu siêu cho cửu huyền thất tổ quá thế nhiều đời siêu sanh lạc quốc. Nhất là ngày nay người Phật tử còn hướng dẫn cha mẹ, vợ chồng con cái đi chùa cúng dường Tam Bảo, cúng dường tịnh tài tịnh vật xây chùa, in kinh, ấn tống kinh, ủng hộ in kinh sách của quý Thầy, quý Sư sáng tác, biên sọan, dịch thuật, giảng dạy; đi chùa xin quy y, đi chùa nghe thuyết pháp, đi chùa học giáo lý Phật học, nhưng không bỏ quên Thầy bổn sư của mình, nơi quy y buổi ban đầu.
* Thứ hai: Phật tử tín đồ là người Phật tử phát tín tâm đi theo Đức Phật, phát tâm học giáo lý Đức Phật, biết ăn chay, biết tham dự niệm Phật… nhưng chưa thọ pháp quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới cấm.
* Thứ ba: Phật tử tín đồ cũng có khi là những người thường xuyên đi lễ các chùa, nhiều chùa trong nước và ngòai nước, chùa nào họ cũng tín tâm lễ lạy ngôi Tam Bảo, chỉ có điều họ chưa quy y.
* Thứ tư: Phật tử phát tín tâm tu một pháp nào của Đạo Phật, như: tu Thiền, tu Tịnh độ, tu Mật tông… nhưng chưa tác pháp lễ quy y.
*Thứ năm: Phật tử chuyên nghiên cứu kinh điễn của Phật, nghiên tầm giáo lý Phật đà, ấn tống kinh, dịch kinh, sáng tác sách Phật… nhưng chưa thọ pháp quy y.
* Thứ sáu: những người có thiện cảm, có tình cảm thân quen với đạo Phật hay một ngôi chùa Phật mà họ có nhân duyên.
Những thứ bậc Phật tử đại để được kể như trên cho chúng ta thấy, khi làm người đệ tử của Đức Phật thật rất quan trọng, và rất ấn tượng với lễ quy y, cho thấy việc tác pháp làm lễ quy y quan trọng đến bậc nào.
Để trở thành người Phật tử chính thức, trước đó người Phật tử được Thầy bổn sư ban cho một pháp danh (tên được đặt trong đạo Phật), giữ gìn pháp danh đó từ ba tháng đến sáu tháng, thậm chí cả năm, gọi là “sơ quy y”. Tuy nhiên không nhất thiết về thời gian đối với người Phật tử, có khi vừa được ban pháp danh thì đã có lễ quy y nên người Phật tử được thọ pháp quy y; sau khi được thọ pháp Tam quy và ngũ giới cấm, tức đã “quy y chính thức”, người đó được gọi là Phật tử “Bổn đạo”, là người “Con” của Phật, hay người “đệ tử” của Đức Phật “Bổn sư” Thích Ca.
Theo Hội Phật giáo Tịnh độ tông Việt nam xưa, thì mỗi khi tiếp nhận người tín đồ Phật tử, phải có hai người Phật tử Bổn đạo của Hội giới thiệu mới được chấp nhận trở thành người tín đồ Phật tử của Hội, đấy là do có tổ chức Hội tu niệm Phật, nên có điều lệ nội quy, quy định về tín đồ Phật tử hay bổn đạo Phật tử khi đến quy y. Ngày nay việc giới thiệu chẳng qua là hình thức, vì Đạo Phật là Đạo giác ngộ, chúng sanh giác ngộ quy y, Phật tử giác ngộ quy y, người có căn lành quy y, người có nhân duyên với Phật, với Sư Thầy phát tâm quy y, người có gia đình thuộc truyền thống đạo Phật… thì được chấp nhận ngay.
Xưa nay, sở dĩ khi quy y bắt buộc có người giới thiệu là để thanh lọc người xấu, người phạm pháp luật trên mọi phương diện, người ngọai đạo… bước vào hàng ngũ Đức Phật rắp tâm phá Phật, phá giáo pháp Phật, làm mất thanh danh Đạo Phật, nên mới có việc khi người phát tâm quy y Phật phải có sự giới thiệu với Nhà chùa.
Theo quan niệm của những bậc xuất thế, mỗi lần quy y là một lần được Đức Phật xoa đầu thọ ký, người đã được Phật xoa đầu thọ ký thì tương lai người ấy cũng thành Phật. Căn lành trong muôn vạn kiếp ảnh hiện, sự an lạc đến với người, sự thành đạt sẽ xuất hiện trong trái tim trí tuệ của người con Phật, họ như người đi trong đêm tối mà có ánh trăng rằm sáng soi. Thậm chí họ còn trở thành những ngọn đuốc sáng khi đêm dài trăng lặn, như câu thơ của vị thiền sư khuyết danh đã nói:

Cuộc sống cần vui, xin nguyện làm chim hót
Sõi đá khô cằn xin chuyển hóa màu xanh
Nguyện làm hoa khi vườn lá trơ cành
Làm đuốc sáng khi đêm dài trăng lặn

Bốn câu thơ trên như là hạnh nguyện ngàn đời của người con Phật. Những ai phát nguyện làm con Phật, làm con Phật vĩnh viễn trong muôn vạn kiếp, làm con Phật cũng chính là làm lợi lạc cho chúng sanh.
Người khởi tâm quy y, phát một lòng thành tín trở thành người có nhiệm mệnh cao cả. Khi quy y nên quỳ thẳng chắp tay hướng về ngôi Tam Bảo, tỏ tấm lòng chân thật, lắng tâm trong sách nói lời:”đệ tử chúng con tên...... pháp danh……………xin nguyện một đời quy y Phật – Đệ tử chúng con tên……pháp danh……xin nguyện suốt đời quy y pháp – Đệ tử chúng con tên……pháp danh………. xin nguyện suốt đời quy y Tăng”
Sau khi đã nói theo giới sư, lời xin quy Tam Bảo rồi, Phật tử tiếp tục nói theo giới sư như sau:”Đệ tử chúng con tên……pháp danh……xin nguyện suốt đời quy y Phật rồi - Đệ tử chúng con tên……pháp danh……xin nguyện suốt đời quy y Pháp rồi - Đệ tử chúng con tên……pháp danh……xin nguyện suốt đời quy y Tăng rồi”
Sau khi đã quy y, không bị sa vào tam ác đạo, Phật tử tiếp tục nói theo vị giới sư như sau:” Đệ tử chúng con tên……pháp danh……xin nguyện suốt đời quy y Phật rồi khỏi đọa vào địa ngục - Đệ tử chúng con tên……pháp danh……xin nguyện suốt đời quy y Pháp rồi khỏi đọa vào ngạ quỷ - Đệ tử chúng con tên……pháp danh……xin nguyện suốt đời quy y Tăng rồi khỏi đọa vào súc sanh”.
Người Phật tử khi đã quy y thọ pháp rồi, suốt đời sống trong rừng công đức “đại bửu lâm”, trí tuệ sáng suốt tuyệt vời, lòng từ trải rộng như trời đất, lòng bi thương xót muôn lòai như muốn ra tay tế khổ độ mê.
Đồng thời, người Phật tử khi đã quy y thọ pháp rồi, từ nay trở đi thà bỏ thân mạng, trọn không quy thiên thần quỷ vật. Vì thiên thần quỷ vật còn luân hồi sinh tử, không phải là bậc thánh nhân ra khỏi thế gian, họ cũng có những sinh họat gần giống như sinh họat trong Đạo Phật, nhưng không tu hành chi cả, họ có cuộc sinh họat tâm linh, sự sinh tồn giả tạm như “ốc mượn hồn”, như “chùm gởi”, mượn thân cây để đeo bám cuộc sống”.
Quý vị đã quy y pháp rồi, thà bỏ thân mạng chớ không quy y theo kinh điễn, lời nói của ngọai đạo tà giáo, không quy y theo các triết lý, tư tưởng, học thuyết của thế gian, những việc thờ cúng ở thế gian. Vì sao, vì kinh điển ngọai đạo tà giáo ở thế gian không phải là pháp môn tu vô lậu giải thóat.
Quý vị đã quy y Tăng rồi, thà bỏ thân mạng, chớ suốt đời không quy y đồ chúng ngọai đạo. Vì đồ chúng ngọai đạo không phải là người giải thóat chứng quả Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát, họ sẽ dẫn dắt quý vị vào con đường tối tăm nguy hiểm. Nghĩa là suốt đời làm con Phật mà chẳng biết giới luật Phật là gì, chẳng biết câu kinh, giáo lý Phật ra sao, vào chùa chẳng biết kính Phật trọng Tăng, chẳng biết giáo pháp Phật là gì, tu hành ra sao?
Ôi đúng là thời mạt pháp, có người làm xằng bậy, không học Phật pháp mà đi nói Phật pháp thật là tu hành thiếu nền nếp, ứng khẩu không lề lối, không đúng chánh pháp, không học đạo mà nói nói đạo, nói năng không ra gì lại bảo là soi căn, đoán mò, chẳng đúng đâu vào đâu, mà bảo là biết quá khứ vị lai của Phật tử, những sinh họat tín ngưỡng ấy dành cho một vài người nhẹ dạ thuộc diện thích “mê tín”… vậy mà vẫn ung dung sống trong Đạo Phật làm bẩn mắt Đức Thế Tôn.
Mặc khác, có người nói:”đến xin phép làm ăn, trong đời người có giàu mới sanh lễ nghĩa”, nhưng khi có tiền, họ sinh ngã mạn, đi nghinh, đi ngang trong chùa, gặp quý Sư không chắp tay xá bái, còn cho rằng ta đây đã có cúng tiền cho chùa; trong khi chùa không mong cầu sự cúng kiến đó, cúng theo cung cách “có tiền thảy vào chùa”, gọi là trả lễ, trả xong muốn làm gì thì làm. Nhưng họ không biết chùa ngày nay, nhất là những trung tâm có truyền bá pháp môn tu “biệt truyền”, có tông chỉ… không cần có sự cúng kiến ấy. Họ không biết quý trọng Sư Trụ trì; quý Sư có bao giờ chấp nhận họ là Phật tử đâu?
Người Phật tử khi đã biết đi chùa lễ Phật và có phát tâm quy y Tam Bảo rồi, khi gặp chư Tăng bất cứ ở chùa nào, xứ sở nào, hay quốc gia nào cũng đều quý kính, đừng nên chỉ quý trọng chư Tăng ở chùa mình cầu quy y Tam Bảo mà thôi, hoặc thích ai thì kính nấy, vô lề lối thiếu đạo đức lắm các bạn ạ… đi chùa không nên thiếu lễ nghi khuôn phép như thế mới đúng là một người Phật tử hiểu biết chân chánh. Đừng nên gặp quý Sư, gặp Đại sa môn, Sa môn mà không quý kính, như vậy thì thật là uổng công đức đi chùa, phí công đi chùa, cũng như không hiểu biết gì về Phật Pháp. Cung phước đức của các bạn sẽ dần dần mất hẳn nơi các bạn và gia đình, các bạn ạ!
Ở Việt Nam, đại đa số ngày nay chỉ còn có Phật tử của phái Thiền hay phái Tịnh đều có quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới cấm; các vị tu hành nghiêm túc lắm, các vị lánh xa đường tà, chăm chỉ học giáo lý Phật học, học Phật pháp, giữ giới để tu. Vì họ đã hiểu “Giới” là giáo pháp Đức Phật, “Giới” là hàng rào ngăn cấm không cho con người bước đến vùng nguy hiểm của cuộc đời, giúp cho con người và gia đình hạnh phúc; “Giới là biên cương hòa bình, ngăn cách giữa Đời và Đạo; “Giới” giúp cho con người làm chủ vận mệnh, làn chủ gia đình, thay đổi môi trường từ môi trường xấu trở nên tốt, môi trường không trong lành êm ấm, trở thành môi trường trong lành êm ấm, hạnh phúc. Giới làm cho chúng sanh vượt khỏi khổ đau phiền não, ra khỏi biển sanh tử, không còn luôn hồi trong sáu nẽo (thiên, nhơn, attula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh…).
Một ngày nọ, Đức Thế Tôn khi đã lớn tuổi nên dẫn môn đệ hành đạo lần về kinh thành Câu Thi Na; lúc ấy thân Đức Phật đã 80 tuổi, bệnh yếu đau nhức, Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, như thế giới đều tối tăm, các cung trời chư Tiên đều rũ rượi, chư đệ tử trong đó có Đức A Nan vật vã than khóc:”Đức Thế Tôn nhập diệt! Đức Thế Tôn nhập diệt! Chúng con không còn biết hỏi giáo lý với ai nữa để tu hành! Ôi sao mà đau đớn thay! Mặt trời chánh pháp sắp tắt hẳn!
Lúc bấy giờ Đức Phật kêu đại chúng và Ông A Nan dạy:”A Nan, các ông không nên cho rằng Đức Thế Tôn nhập diệt là chánh pháp không còn trụ thế; sau khi Ta nhập diệt các Ông hãy lấy giới luật làm Thầy, giới luật còn là Ta còn, giới luật mất là Ta mất!
Xem trên chúng ta thấy, người con Phật có thọ quy giới, có giữ giới thì chánh pháp còn, chánh pháp còn là Đức Phật còn. Thế nên người con Phật dù xuất gia hay tại gia không nên không thọ giới pháp để tu hành.

Phước lành của người Phật tử
…Ngày xưa, tại nước Xá Vệ có một gia đình Trưởng Giả, Bà vợ của Ông năm đó sinh được cháu trai, khôi ngô tuấn tú. Giữa lúc sinh, trên trời tự nhiên hoa rơi xuống đầy sân, nhân hảo tướng nầy Ông Bà đặt tên cho con là “Hoa Thiên”.
Dân làng ai cũng khen Trưởng Giả nhiều phước đức, sinh được con quý, Trưởng Giả rất vui, nuôi con một cách đường hoàng trân quý, hy vọng sau nầy làm nên danh giá cho vọng tộc. Ông Bà lúc nào cũng không rời lòng yêu thương triều mến con, luôn luôn làm những việc lành để hồi hướng cho con. Song tính nết của Hoa Thiên cũng rất ngoan, hiếu kính mẹ cha, lại có óc thông minh và hiền hậu. Đối với mọi người trong nhà cũng như hàng xóm, không làm mất lòng ai bao giờ, lại hay có tâm giúp đỡ người, nhất là những người cô bần, nghèo khó, nên được nhiều người kính mến, cảm phục.
Sau khi lớn tuổi học hành tiến đạt, một hôm theo người thân đi cúng dường Phật. Tới chốn Phật, nhìn thấy Ngài có oai đức phi thường đầy đủ tướng từ bi, quang minh xáng lạng, tự phát tâm ngưỡng mộ, vui mừng hớn hở rồi thầm nghĩ rằng :
“…Người ta sinh trên đời, được gặp Phật là một sự khó, những người được hạnh ngộ là có túc duyên lắm vậy…”
Nghĩ xong Hoa Thiên tới trước Phật, sụp lạy thưa rằng :
“Kính lạy Đức Thế Tôn ! chúng con không biết có phước lành gì mà hôm nay được tới đây chiêm ngưỡng Ngài, cúi xin Ngài từ bi giáo hóa cho chúng con được biết đường hướng tu hành, thoát khổ, đời đời được an lạc…”
Phật dạy, hay lắm ! Ngươi có duyên lành, muốn được an vui, hãy ghi nhớ những lời ta nói :
“Con người phú quý hoặc bần tiện cũng do tự mình tạo tác, giữ gìn ngũ giới được sinh làm người, tạo mười điều lành được sinh thiên, tham lam bỏn xẻn đọa thành ngạ quỷ, sát nhân hại vật, sân si phải đoạ địa ngục, tà kiến vô nhân đạo làm loài súc sinh…”
Hoa Thiên nghe xong như người đói được ăn, khát được uống, quỳ lên bạch Phật rằng :
“Kính lạy Thế Tôn, ngày mai chúng con thành kính sắm sữa trai nghi, cúi xin Ngài và quý Sư dời gót ngọc tới tới nhà con chứng trai, thọ thực và sau đó ban bố bài pháp lành để cho cha mẹ con, lục thân quyến thuộc được ân triêm công đức…”
Phật dạy : “Hoa Thiên có lòng thành kính Ta và quý chư Tăng sẽ chứng minh công đức”
Hoa Thiên lễ tạ lui ra, về nhà trình bày cùng cha mẹ công việc thỉnh Phật và quý Sư ngày mai, thì Ông Bà rất vui lòng. Đêm ấy cả nhà đều tấp nập bày biện kim tòa, trải chiếu tới sáng mới xong. Tuy nhiên, trong nhà chưa sửa soạn các món ăn, Ông Bà liền hỏi con :
“ Hoa Thiên đáp :” Thưa Cha Mẹ, việc ấy để con lo liệu, Cha Mẹ không phải lo…”
Khi Phật và quý Sư quang lâm, do phước báo của Hoa Thiên, trên trời hóa hiện ra những tòa ngồi, bằng thất bảo, nơi nằm, nơi nghỉ, trang nghiêm, vô cùng rực rỡ. Phật và quý Sư thăng tòa ngồi yên lặng, lúc bấy giờ các món ăn tự nhiên hiện ra.
Dùng cơm xong, Phật thuyết pháp nói về “Tứ Diệu Đế”; Hoa Thiên và đại chúng nghe xong, được chứng quả Nhập Lưu (được bước vào dòng nước Thánh)
Sau khi Phật và quý Sư về Tịnh xá, Hoa Thiên xin cha mẹ theo Phật xuất gia cầu học đạo giải thoát, vì Ông Bà đã hiểu đạo, nên hoan hỷ cho Hoa Thiên xuất gia theo Phật tu hành. Hoa Thiên lạy Cha Mẹ rồi đến tịnh xá cúi đầu lễ Phật xong thưa rằng :
“ Kính lạy Đức Thế Tôn ! Xin Ngài từ bi hoan hỷ cho con được xuất gia nhập đạo tu hành, vì đã được sự đồng ý của Cha Mẹ con”
Phật dạy :”Thiện lai Tỳ kheo !
Ngài nói dứt lời, tóc trên đầu Hoa Thiên tự nhiên rụng hết, áo mặc trong thân biến thành áo Ca sa, thành hình tướng Sa môn, tu hành thật tinh tiến, chẳng bao lâu chứng quả Vô sanh A La Hán.
Thấy việc Hoa Thiên tu hành và chứng quả một cách mau lẹ như vậy, ngài A Nan lấy làm lạ, nên tới trước Phật làm lễ bạch rằng :
“Kính lạy Thế Tôn, Hoa Thiên Tỳ Kheo, thuở trước làm phước đức gì mà lúc sơ sinh có hoa sen trên trời bay xuống, khi cúng dường Phật tự nhiên lại có giường tòa và các món ăn thịnh soạn, kính xin Ngài chỉ dạy cho chúng con được am tường”
Phật dạy :”Ở trang nghiêm kiếp của Ta, thuở đó có Đức Phật hiệu là Tỳ Bà Thi. Phật ứng thế độ sanh, thường thường cùng chư Tăng đi vào các làng ấp để giáo hóa, những nhà tôn quý và nhân dân không phân biệt giàu nghèo sang hèn đem các món ăn và vật dụng cúng dường.
Lúc ấy có một người Phật Tử nhà nghèo thấy mọi người sùng kính cúng dường Phật và quý Sư, trong lòng rất hoan hỷ, nhưng hận vì mình nghèo, không có tiền bạc, tài sản dâng cúng để lập phước duyên cho tương lai. Vị Phật Tử kia đi tới đi lui suy nghĩ mãi, không biết làm gì để có phẩm vật dâng cúng Phật. Ngồi lại bên đường, cạnh chổ ngồi có một mớ hoa cỏ, Ông liền hái số hoa cỏ bên lề đường, một lòng thành kính lễ lạy, tung hoa cúng Phật và quý Sư. Lúc bấy giờ được Đức Phật chứng minh, Ông rất hoan hỷ và xin được phép ngồi xuống nghe Phật thuyết pháp.
Nầy A Nan, người nghèo khó cúng hoa cỏ thuở đó, nay là Hoa Thiên Tỳ Kheo, đấy cũng do đời quá khứ có lòng tin kính cúng hoa dâng lên Phật, chí tâm cầu nguyện, từ đó đến nay đã trải qua chín mươi mốt kiếp, Hoa Thiên được phước báo sanh vào thế giới nào thân thể cũng tốt đẹp, ý muốn dùng gì cũng được đầy đủ, thức ăn uống giường tòa các dụng cụ, trang trí nội thất, vừa nghĩ đến tự nhiên có, và lúc sơ sinh có hoa trên trời bay xuống do phước duyên đó mà nay gia đình thật hạnh phúc và Hoa Thiên tu hành được đắc đạo.

Thật mầu nhiệm thay ! quý hóa thay, làm con Phật bạn ạ !

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

CHƯƠNG THỨ BA

6 . NGÀY THỨ SÁU:
Giới luật dành cho người tu tại gia

Bạch Sư! Xin sư giảng giải cho chúng con được tri tường về giới luật của người Phật tử tại gia?

Giới luật dành cho người tu tại gia cũng gọi là giới cấm. Giới cấm , nói cho đủ là ngũ giới cấm, tức là năm giới dành cho người tu Phật tại gia thọ học giữ gìn, không cho hư mất. Nói là giới cấm tức luật Phật ban hành, khi giới sư truyền giới cho Phật tử bảo là “không”, chớ không phải “cấm đoán”; vì Đạo Phật là đạo giác ngộ, con người giác ngộ giữ giới, không bắt buộc giữ giới. Giới là diệu dược phương thang, theo bệnh nào, thì giữ giới đó, giữ giới nào đắc đạo theo giới ấy. Giới cấm theo bản dịch và biên sọan của Đại lão Hòa Thượng Thích Thiện Hòa và bản dịch của Sư Cụ Hồng Tại Đòan Trung Còn, như sau:

GIỚI THỨ NHẤT: Không được giết hại chúng sanh.
Chúng sanh tức là lòai hữu tình chúng sanh. Nghĩa là các lòai có tánh biết; tuy chổ tạo nghiệp thọ thân bề ngòai có khác nhau, nhưng cái tánh biết đến với người không khác. Nó cũng có biết tham sống sợ chết, biết khổ, biết vui, biết thương, biết ghét, biết tìm lối sống, biết tìm cách thóat thân như con người.
Con người tham sống, con vật cũng biết tham sống, người sợ chết, vật cũng sợ chết. Người Phật tử không được giết chết, xúi giục người giết chết, thấy giết hại mạng mà vui theo, có những cử chỉ hành động biểu đồng tình trước sự giết chóc… làm tổn thương sinh mạng tất cả những lòai vật thuộc có mạng sống. Vật lớn như con voi, con bò, con trâu, chó, mèo, dê trừu… vật nhỏ như gà, vịt, muỗi mòng, kiến, dế, vi trùng… đều không được giết hại.
Người Phật tử không giết hại chúng sanh, trái lại còn mua các con vật, như: chim, cá, rùa, rắn… phóng sanh thì hiện đời nầy sẽ được tăng kỷ, đời sau sanh làm người sẽ được sống trường thọ. Ngược lại, người ưa thích giết hại chúng sanh thì hiện đời sẽ bị giảm kỷ, qua đời sau phải bị quả báo thương đau, ly tan mệnh yểu.
Khi nghe Sư Thầy giảng dạy làm việc phóng sanh có phước đức vô lượng, làm việc phóng sanh được trường thọ, người Phật tử không nhất thiết phải vào chợ mua chim đã bị những người nông dân rập bắt đem bán để phóng sanh, vì mua chim phóng sanh bằng cách nầy là tạo cơ hội cho người nông dân tiếp tục rập bắt mà sanh tội vô biên.
Khi chúng ta đi đường, gặp trẻ con bắt lấy ổ chim làm vật thí, người Phật tử liền mua ổ chim ấy đem trở lại nơi chổ cũ, để mẹ con lòai chim được trùng phùng, chim con không phải bị chết đói, chim mẹ không phải bị khổ đau vì mất con… gặp người nông dân bắt rắn hay ếch, dế liền mua rắn, ếch dế ấy đem phóng sanh. Phóng sanh như thế phước báo vô lượng v.v…
Có nhiều người phóng sanh bằng cá kiểng, việc làm có hình thức ấy cũng được thôi, nhưng chẳng thấy gì là phước đức cả, vì có người mua phóng sanh, thì có người “nuôi cá đẻ” để bán phóng sanh “việc làm thật nực cười và cảm thấy ái ngại vô cùng”

GIỚI THỨ HAI: Không được trộm đạo (trộm cắp). Như thế nào gọi là trộm cắp. Là tất cả những vật quý báu như vàng, bạc, ngọc, ngà, cho đến vật dụng nhỏ nhặt, như cây kim ngọn cỏ, trái ớt… đã thuộc quyền sở hữu của người, tức là vật có chủ trông coi, người ta không cho, mà mình lén lấy, hoặc cậy thế ỷ quyền mà lấy, lường thăng, tráo đấu, đi làm việc trể giờ… thuộc về tội trộm cắp cả.
Thậm chí, đến những việc như: qua đò không trả tiền đó, buôn lậu, trốn thuế nhà nước, tham nhũng tiền của dân, biển thủ tiền công quỹ, hối lộ, lén lấy tài sản của công, mua một bán mười… đều thuộc tội trộm cắp cả.
Lén lấy gọi là trộm cắp, công khai mà lấy, dùng sức mạnh, thế lực mà sang đọat của người gọi là cướp, xa hơn nữa là giết người cướp của… Các tội lỗi trên đều có liên quan đến giới thứ hai. Trường hợp là cướp, cướp của giết người hoặc trộm vượt ra ngòai cương giới Nhà Phật, những tội ấy sẽ do pháp luật của nhà nước trừng phạt.
Trộm cắp có những điều hại gì? – Hiện tại bị người tìm bắt, trói buộc tra tấn kềm kẹp, hành phạt, khổ sở, cha mẹ buồn khổ, xã hội khinh thường, bè bạn lánh xa, mất sự tin cậy lẫn nhau. Sau khi chết, trở lại làm người bị bần cùng, cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ ấm. Hoặc có khi làm được của, rồi bị trả báo cướp giựt, nhà cháy, nước trôi, rốt cuộc cũng hòan nghèo khổ, hoặc làm tôi tớ, trâu bò ngựa để trả nợ trước.
Không trộm cắp, có lợi ích gì? – không trộm cắp mà còn bố thí, thì đời nầy đời sau hưởng phước giàu có, an vui sung sướng, con cháu nhiều đời nhờ phúc thừa của ông bà cha mẹ, mà được giàu sang, vinh hiển? Song nhờ sự phát tâm bố thí, mà tiêu trừ lòng tham lam, trộm cắp.
Giữ giới không được trộm cắp có nhiều lợi ích như trên, người tín đồ Phật tử nên thọ pháp quy giới gìn giữ cho nghiêm minh.

GIỚI THỨ BA: không được bất tịnh hạnh (từ Phật học xưa nói không tà dâm), nói không tà dâm thật không thanh bai chút nào trong nhà Phật, trước cửa Phật, thế nên mới không dùng từ “không được bất tịnh hạnh”.
Đức Phật dạy: Người Phật tử còn tại gia giữ năm giới, chỉ giữ giới không được phạm bất tịnh hạnh, cần phải giữ hạnh phúc gia đình, sống một chồng một vợ, không nên lén ngó vợ chồng người khác, gái đẹp gái trinh, không nên lén lút làm việc xằng bậy rối lọan gia phong, vi phạm thuần phong mỹ tục.
Chúng sanh có nhiều tâm ái dục, thương yêu tà vạy có nhiều tổn hại, như: làm cho chồng hay vợ buồn khổ, ghen tương, hận thù… làm cho mất lòng tin cậy lẫn nhau, thân mạng sẽ chết theo đao gươm, gia đình lần lần suy sụp, nghèo khổ cận kề, hạnh phúc không còn gần gũi với gia đình. Người có tâm ái dục, làm việc tà vạy, làm việc bất tịnh hạnh với người khác luôn luôn mắc phải các quả báo xấu về sau, đang sống chung hạnh phúc, có người đến phá họai gia can; khi làm chồng hay vợ con, phải nhìn thấy người thân hay sanh lòng lang chạ, chồng có vợ đôi vợ ba… vợ có chồng hai, chồng ba…
Người Phật tử muốn cho gia đình đầm ấm, hạnh phúc, vui vẻ, muốn được tin cậy, muốn mạng sống vững yên, muốn cho thành tựu gia nghiệp ăn nên làm ra, muốn cho được tiếng thơm trong sạch ở đời nầy và khỏi bị quả báo xấu đời sau, thì nên dứt hẳn bệnh tật tà bất tịnh hạnh (không tà dâm). Không tà bất tịnh hạnh có lợi ích, người tín đồ Phật tử giữ gìn cẩn trọng đừng để cho vi phạm.

GIỚI THỨ TƯ: Không được nói dối, khoe khoang, đâm thọc, rủa sả. Nói dối là nói không thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có; khoe khoang là hay nói xấu người, khoe mình tốt, hay khoe khoang khóac lác; đâm thọc là nói xóc hai đầu, đem chuyện xấu đàng đây nói cho kia nghe, đem chuyện xấu đàng kia nói cho đây nghe, nói không đúng chuyện của đối phương, thuật dịch lời không chuẩn xác khiến cho hai bên chửi lộn, mắn lộn với nhau, hận thù với nhau, chiến tranh với nhau; rủa sả là mắng nhiếc, nói lời thô tục, lời thô bỉ, lời trù dập người khác, người mình không ưa, rũa sả nói lời thô tục với con cái mình, với người thân của mình hay tha nhân hàng xóm.
Đức Phật dạy: nói dối là tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẽo, miệng nói một nẽo, làm việc một ngã khác, nói dối có bốn cách:
1 . Nói không chân thật: Nghĩa là lấy phải làm quấy, cho nên thấy mà nói không thấy; lấy quấy làm phải, cho nên việc không thấy mà nói là thấy.
2 . Nói thêu dệt: Nghĩa là trau sữa lời hoa nguyệt, tiếng hay khéo, nhưng tâm không thật, trí không tịnh, xui người buông lung tâm trí, để làm việc tà bậy.
Nói thêu dệt cũng còn có nghĩa là khoe khoang, nói tốt cho mình, khóac lác, tâng bốc câu chuyện, làm cho câu chuyện thật lại trở thành hoa mỹ mất rồi, chuyện hư cũng hóa ra là thật. Người ấy không bao giờ sống trong thật tế của sự thật.
3 . Nói lưỡi đôi chiều: Là đem chuyện đây nói kia, đem chuyện kia nói đây, dùng thân miệng ý của mình làm cho đôi bên bạn thành thù hận, chửi rủa lẫn nhau, gây chiến tranh lẫn nhau…
4 . Rủa sả: nói lời thô tục, mắng nhiếc hủy nhục người, làm cho người nổi sân si, gieo rắc hận thù. Ơ trước mặt người nói khác, sau lưng người nói khác, tiền hậu bất nhất, bạn bè mất lòng tin cậy lẫn nhau. Người ác khẩu không làm nên sự nghiệp, không dựng nên cơ nghiệp lớn; hiện đời cũng như tương lai không sanh vào đường thiện, gặp nhiều khó khổ trong cuộc sống.
Người không nói dối, là người tâm nghĩ như thế nào, thì miệng nói ra như thế ấy, được quần chúng tin cậy, đời sau thân tướng trang nghiêm tốt đẹp, tướng lưỡi rộng dài, luôn nói lời thật. Vì có sự lợi ích như thế, nên tín đồ Phật tử lúc nào cũng nói lời chân thật.

GIỚI THỨ NĂM: Không được uống rượu, rượu là thứ nước có chất thuốc lên men, đường lên men, chất chua thành men hay làm cho con người say sưa, không còn tĩnh táo khi dùng đến rượu. Người tín đồ Phật tử khi đã thọ giới pháp, dù một giọt nhỏ cũng không uống. Hoặc tự mình tìm uống, hoặc đưa rựơu cho người uống cũng đều phạm tội nặng, lỗi lớn. Thuốc độc uống vào thời chết ngay, song chỉ giết hại mạng người trong một đời, nhưng cũng ít độc hơn rượu, vì rượu là thứ nước làm cho người si mê tâm não, mất giống trí tuệ, gây nên những tội lỗi đáng tiếc, chết đi sống lại nhiều kiếp, nên rượu là thứ độc được, độc hơn thuốc độc. Rượu có thể làm mất cả giang sơn, mất cả triều đại đối với những vị hôn quân vô lại thời xưa. Người xưa dùng rượu để làm nên lễ nghĩa, nhưng cũng chính rượu làm mất lễ nghĩa phong hóa của con người ở từng thời đại. Chúng ta nên kiêng dè với rượu.
Rượu không chỉ làm hại con người, mà còn làm hai mạng chúng sanh, có rượu thì có giết hại heo dê gà vịt, nói chung là mạng chúng sanh, rượu hay khiến cho người thường gây ra tội lỗi, lỗi lầm nguy hiểm từ tình bạn đơn sơ đến cựu thù không đội trời chung. Rượu vào lời ra, con người có thể mượn rượu để trả thù, mượn rượu để mắng nhiếc chê bai người khác, gây đổ vỡ tình bè bạn, thân bằng quyền thuộc, kể cả anh em ruột thịt.
Trong Đại luật, đức Phật dạy: Người say rượu, sẽ bị xui khiến làm việc tà vạy, sanh mười điều tội lỗi:
1/. Tâm tán lọan, của cải rơi mất
2/. Thân hay sanh tật bệnh
3/. Tăng trưởng lòng giết hại
4/. Tâm sân hận bừng lên, ưa sanh sự tranh đấu
5/. Trí tuệ kém dần
6/. Phúc đức tiêu mòn
7/. Sự nghiệp không thành công
8/. Lúc nào cũng có sự buồn khổ
9/. Khổ nhục cha mẹ vợ con
10/. Thân họai mạng chung, đọa vào địa ngục hắc ám, chịu khổ trăm bề, đời đời sống trong u tối. Người không uống rượu thì tâm trí sáng suốt, làm việc gì cũng được mọi người tin cậy ủng hộ, nên sự nghiệp, thành công trên đường đời.
Trong giới uống rượu, thường là đức Phật hay nhắc đến người nam là rường cột của gia đình. Nên phàm làm con Phật thì dù ở ngòai thế gian hay ở trong đạo cũng đừng bao giờ uống rượu.
Nhân nói chuyện uống rượu, ngày nay đại đa số các gia đình, người ta thường dùng nước bia để làm nước giải khát. Sự thật thì điều nầy không đơn giản gọi là nước giải khát; vì chất men bia chính là nguồn gốc hóa chất làm lên men, làm cho tâm thần người bấn lọan, hóa chất ấy lại có trong men bia, nên chính rượu bia là thứ “nước say” rẽ tiền rây tổn hai thân thể con người và làm tán gia bại sản cũng vì “nước say rẽ tiền ấy”.
Xưa cũng như nay, đời cũng như đạo, đã giữ giới không uống rượu, thì đừng bao giờ uống, dù đó là rượu thuốc. Ngày xưa thầy thuốc xem mạch kê toa cho người bệnh, có đôi khi chỉ định bệnh nhân dùng các lọai thuốc có ngâm rượu để uống khi có bệnh, nhưng là bệnh kinh niên, bệnh khó chữa, bệnh đã bế tắc… nên khi có bệnh trong đạo, đức Phật, nhà Thiền, nhà Chùa cho phép Phật tử khai giới uống rượu thuốc thì được uống, nhưng khi uống phải bạch cho đại chúng chư tăng, Thầy Bổn Sư được biết để uống. Cho đến khi lành bệnh, phải bạch với chư Tăng giữ giới cấm lại, không còn uống rượu nữa, nhưng đây là chuyện xưa. Còn chuyện nay thì thuốc men tinh lọc có đủ, có thừa, không nhất thiết khi bệnh phải dùng đến thuốc rượu, vì thuốc rượu sẽ là mối nguy hại “tác dụng phụ”, sau khi chạy chữa lành bệnh, bệnh nhân sẽ bị chuyển sang bệnh khác, tức là bệnh “ghiền rượu”, còn nguy hại gấp trăm ngàn lần khi chưa mắc bệnh trước đó!
Bạch Sư! Chúng con đã nghe Sư giảng về Tam Quy y và năm giới cấm của Phật ban truyền dành cho Phật tử, chúng con và gia đình xin quy y Pháp tu hành.
Rằm tháng bảy đến đây, chúng con xin đến Tu Viện quy y.
Mô Phật, mong Sư chứng minh!

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

PHẦN III
Cư sĩ lập hạnh xuất gia
&&&

CHƯƠNG THỨ TƯ

7 . NGÀY THỨ BẢY:
Do nguồn Bát Quan Trai giới

Bạch Sư! Trong hệ thống tu hành của môn phong,có nhiều sinh hoạt lớn, thật ích lợi cho Tăng ni, Phật tử. Trong đó có tác pháp truyền thọ “Bát Quan Trai giới”, chúng con tuy có dự khóa tu “Bá Nhựt trì danh niệm Phật”, nhưng chưa dự khóa “Bát Quan Trai giới”. Xin Sư giảng giải cho chúng con và đại chúng được thông suốt để thọ học?

Khóa tu Bát Quan Trai tại Quan Âm Tu Viện được khai mở vào ngày 15 tháng giêng năm Mậu Thìn (1988), do Ni Trưởng Thích Nữ Huệ Giác và quý Sư tại Viện tác pháp truyền giới. Theo luật Phật chế, thì thời gian tu học dành cho Phật tử từ 6 giờ sáng hôm nay, đến 6 giờ sáng hôm mai là xả giới.
Khóa tu Bát Quan Trai đã được Đức Phật ban hành vào thời điểm Ngài sinh tiền, dành cho quý các vị từ Vua, Quan, đến các hàng thứ dân đều có thể đến với Đức Phật thọ học.
Trong kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, quyển thứ sáu, phẩm thứ tám,Ưu Ba Ly hỏi Phật về các vấn đề giới, truyền giới, thọ giới và giữ giới, trang 411 ngài Ưu Ba Ly hỏi Phật:
Bạch đức Thế Tôn! Nếu không thọ Tam Quy mà thọ ngay ngũ giới, tám giới có được không? Hoặc không thọ Tam quy mà thọ ngay Bát giới có thành không?... Phật trả lời: “…Hết thảy đều không được, nếu muốn thọ năm giới, tám giới đều nên phải thọ Tam quy rồi mới thọ các giới, như thế mới đúng nghĩa…” Phép thọ Bát Quan Trai.
Như một người Ưu Bà Tắc, trước đã thọ Tam Quy rồi sau nếu muốn thọ năm giới, tám giới, mười giới thì có cần phải thọ lại Tam Quy nữa không?... Phật trả lời: “…không cần phải thọ Tam Quy nữa cũng được thọ các giới, vì trước đã thọ Tam Quy rồi”.
Ngài Ưu Ba Ly hỏi: “nếu trước không thọ Tam Quy mà bạch tứ yết ma, thì có được Cụ túc giới không? Phật dạy: “…nếu thọ năm giới, tám giới và mười giới, thì trước cần phải thọ Tam Quy rồi sau mới thọ các giới đó, thì mới thành giới”.
Những bài pháp tôn giả Ưu Ba Ly là vị trì luật đệ nhất thưa thỉnh Đức Phật như trên và ngài đã thuyết giảng tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật trước 28.000 vị Đại tỳ kheo đệ tử của Đức Phật. Bài pháp trong kinh Đại thừa Phương Quảng, Đại Phương Tiện Đệ Nhất minh chứng ở thời kỳ ấy đã có tổ chức các khóa tu dành cho các vị Cư sĩ tiến bộ đến tịnh xá Trúc Lâm hay Linh Thứu Sơn cầu thọ học Bát Quan Trai giới với Đức Phật, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa về truyền thống tu hành thực tập thiền tụng của giới cư sĩ ngày xưa cũng như hôm nay.
Lúc bấy giờ Ngài Ưu Ba Ly hỏi Phật:
- Phép thọ Bát Quan Trai giới không được ăn quá ngọ. Nhưng không ăn quá ngọ là giới thứ chín,vậy tại sao không nói là Cửu Quan Trai, mà gọi là Bát Quan Trai?
- Phàm phép ăn chay là lấy sự không ăn quá ngọ làm “thể”, Tám giới cùng giúp đỡ cho thành cái “thể” của phép ăn chay, gọi là “Trai pháp Bát chỉ”, cho nên nói Tám giới mà không gọi là Chín giới vậy…
Ưu Ba Ly hỏi:
- Người thọ Bát quan Trai giới, trong bảy chúng, họ thuộc chúng nào?
Phật trả lời:
- Tuy không thọ giới trọn đời, nhưng vì họ giữ giới trong một ngày một đêm; thì cũng có thể gọi là Ưu Bà Tắc.
Ưu Ba Ly hỏi:
- Ngòai bảy chúng ra (Tỳ kheo, Sa di, Tỳ kheo ni, Thức xoa, Sa di ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di), có giới Ba la đề mộc xoa không?
Phật đáp:
- Có Bát Quan Trai giới đó. Lấy đấy mà suy, thì nếu thọ Bát Quan Trai giới không thuộc vào bảy chúng vậy.
Phép thọ Bát Quan Trai giới, chỉ nói không sát sinh trong một ngày, một đêm thôi, ngòai ra không ngăn cấm...
Ưu Ba Ly hỏi:
- Phép thọ Bát Quan Trai
Do bài pháp trên, có nhiều Phật tử đến thưa thỉnh Sư Quang giảng giải! Như vậy ngòai đàn Bát Quan Trai giới, người tín đồ Phật tử có thể sát sinh được hay sao?
Như trên đức Phật đã dạy, người tín đồ Phật tử muốn thọ Bát Quan Trai giới trước phải thọ Tam Quy… đấy là ý tứ của Phật dạy: …trước thọ Tam Quy rồi mới thọ đến năm giới, tám giới, tức là phải thực hiện theo quy trình nầy mới xứng nghĩa là đệ tử đức Phật Thích Ca. Cho nên thời gian không thọ Bát Quan Trai, người Phật tử vẫn còn có năm giới đã được giới sư truyền giới trước đó rồi, do đó vẫn có giới cấm “không sát sinh” là giới thứ nhất dành cho Phật tử giữ gìn trong thời gian không theo khóa tu Bát Quan Trai.
Ưu Ba Ly hỏi:
Pháp tu Bát Quan Trai giới, có được thọ một lúc trong hai ngày, ba ngày cho đến mười ngày không?
Phật trả lời:
Phật đã chế ra giới một ngày, một đêm, thì không được quá hạn. Nếu có sức thọ được, thì một ngày xong rồi, lại lần lượt thọ lại, cứ như thế tùy sức nhiều hay ít, chứ đừng tính số ngày. Phàm thọ Bát quan Trai pháp, là phải theo người khác dạy, mới được thọ.
Ưu Ba Ly hỏi:
Theo người nào mà thọ?
Phật trả lời:
Theo người trong năm chúng xuất gia mà thọ…
Những lời dạy như trên, cho chúng ta thấy ở vào thời kỳ đức Phật giáo hóa, Ngài cũng rất quan tâm đến việc tu Bát Quan Trai giới. Vì giới Bát Quan Trai là khóa tu có phương tiện đủ đầy dành cho người tại gia, các vị quốc vương, công hầu khanh tướng, những người làm việc trong chốn công đường, những người mua gánh bán bưng, các sinh viên học sinh, các thành phần chủ yếu trong xã hội đều có thể tham dự khóa tu dễ dàng.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

8 . NGÀY THỨ TÁM:

Bát Quan Trai giới

Bạch Sư! Xin Sư giảng giải cho chúng con được am tường về ý nghĩa Bát Quan Trai và tám giới quan trai là giới nào?

* Trong Tát Bà Đa Tỳ ni Tỳ Bà Sa quyển 1 nói:”Phàm đắc giới Ba la đề mộc xoa, trong ngũ đạo chỉ có nhân đạo (người) đắc”. Bát giới cũng là Ba la đề mộc xoa, cho nên trừ lòai người ra, chúng sanh lòai khác cho đến thiên nhơn cũng không đắc giới. Tuy nhiều chỗ trong kinh có nói: Long (lòai rồng) thọ trai pháp với thiện tâm công đức, nhưng không đắc giới. Lại nói:”trong bốn lọai người, một là nam, hai là nữ, ba là hùynh môn, bốn là người hai căn, chỉ có nam, nữ đắc giới”. Đó là muốn nói ở trong loài người, chỉ có nữ, nam sinh lý bình thường mới có thể đắc giới.
Bát Quan Trai giới là tám cửa trai giới. Những người tu tại gia, mỗi tháng vào những ngày trai như: mùng tám, mười bốn, mười lăm, hăm ba… ở Quan Âm Tu Viện thì tổ chức ngày chủ nhật, và cứ cách một tuần chủ nhật thì chủ nhật kia là ngày thọ Bát Quan Trai giới dành cho người Phật tử Quan Âm Tu Viện thọ học tu tập thiền tụng. Người thọ Bát quan Trai giới bỏ tất cả những sự bận rộn của thế tục, vào chùa nhờ một Thầy Tỳ Kheo truyền cho tám giới và “một trai” (một trai tức là không ăn quá giờ ngọ) mà hành trì trong một ngày một đêm. Nếu xa chùa và không có Thầy Tỳ Kheo thanh tịnh thì tự mình đến trước Phật sám hối tội lỗi phát nguyện thọ trì trai giới cũng được. Nhưng ngặt nổi người đời nay tâm chí hay buông lung nên thường là kết thành tập đòan tập chúng cùng chung thọ học Bát Quan Trai, cân nhắc lẫn nhau mà tinh tiến tu hành, vì vậy mà các nam nữ cư sĩ thường hay tập trung thọ trì Bát Quan Trai giới là vậy. Thọ trì trai giới là đóng bít cửa ác đạo, a tu-la, mà mở cửa nhân thiên, cực lạc, niết bàn, nên gọi là tám cửa trai giới.
Giới Bát quan trai chính xác được gọi là giới cận trụ. Nghĩa là sống gần đời sống xuất gia, gần chùa, tịnh xá, thiền viện, tu viện, gần nơi thanh tịnh. Tập quen sống với đời sống thanh tịnh để thấy được giá trị của “đạo giải thóat”, giá trị của cuộc sống “đạo”, giá trị của đạo Phật là con đường đưa đến sự giải thóat sanh tử luân hồi. Còn có giá trị cao hơn nữa, cận trụ được hiểu là tập sống đời sống một vị A la hán, là bậc thánh xuất thế gian.
Ngòai nghĩa cận trụ, giới Bát quan trai còn được gọi là bố tát hay trưởng tịnh, trì giới làm phát triển phần thanh tịnh, những đức tính tốt trong thân tâm người con Phật và chúng sanh chung, nếu chúng sanh ấy biết tiếp nhận các giới của Phật ban truyền.
Giới Bát quan trai nghĩa là “cận trụ”, còn có nghĩa là sống gần gũi đời sống cao thượng của một bậc Thánh. Với người xuất gia, giới luật được coi là khuôn mẫu đạo đức, nêu gương lành về một đời sống của vị Thánh xuất thế gian. Mặc dù tâm tư người ấy còn nhiều hờn giận, ham muốn, nhưng khi đi đứng nằm ngồi, học tập theo hạnh lành bậc Thánh nhân, nên tác phong đạo đức người ấy là hình bóng của các bậc Thánh Tăng xa xưa còn soi sáng lại ở vào thời mạt pháp. Tuy người tập sự xuất gia không được như các bậc Thánh xuất thế, như các bậc xuất gia, sa môn, đại sa môn, nhưng người ấy sẽ tập lần, tập sống theo những đạo hạnh tiêu biểu, những tác phong ít có trong đời thường, tập làm quen với những cuộc sống chay lạt, đạm bạc, xuất thế… xa hơn nữa, do quá trình công phu tu tập, gần Phật Pháp Tăng, trường chay niệm Phật, trau giồi tâm linh trở nên thánh thiện, nên hiện tiền và tương lai được đức Phật gia hộ, thấy Phật không còn bị chìm đắm trong cõi luân hồi đau khổ cho tự thân và sẽ có cơ hội cầu tha lực Phật giúp cho tha nhân cũng được Phật huệ như chính mình vậy.
Đức Phật chế “cận trụ luật nghi” mục đích để cho người tu Phật tại gia có được phương pháp tu học xuất gia tạm thời, đồng thời xác định sự lợi ích công phu tu tập thiền tụng của người con Phật, giúp cho họ có cơ sở phấn đấu với nghiệp lực để đi đến sự đắc đạo như hàng xuất gia. Qua đó còn thực hiện được những lời dạy của Đức Phật xóa tam những hàng rào giai cấp khi học đã thọ học những giới luật, như ở giới thứ sáu, giới thứ bảy…
Kinh Thập Thiện giới, đức Phật dạy:”Bát Quan Trai giới là do chư Phật quá khứ, hiện tại vì hàng Phật tử tại gia chế pháp xuất gia”.
Qua lời dạy trên, chúng ta thấy rằng: chẳng riêng Đức Phật Thích Ca chỉ bày pháp xuất gia Bát Quan Trai giới nầy cho hàng tại gia, mà chư Phật quá khứ cũng đều chỉ dạy như vậy. Pháp Bát Quan trai giới tuy thấy có vẽ đơn giản, song rất quan trọng, bài pháp rất xứng đáng người người Phật tử tại gia thường luôn thọ trì. Học tập pháp xuất gia theo giới Bát Quan Trai để từ từ tiến đến việc chính thức xuất gia.
Trong kinh Dược Sư nói:”Thọ bát phần trai giới lại phải niệm công đức bổn nguyện của đức Phật Dược Sư, đọc tụng kinh Dược Sư nầy, tư duy nghĩa lý diễn nói khai thị…” Do đây chứng minh ngày thọ Bát Quan Trai cũng có thể tụng kinh.
Bát Quan Trai giới là :
* Thứ nhất : Không sát sinh
* Thứ hai: Không trộm đạo
* Thứ Ba: Không bất tịnh hạnh (không còn sống ái dục hằng ngày như người thế gian)
* Thứ Tư: Không nói dối, khoe khoang, đâm thọc, rủa sả
* Thứ Năm: Không uống rượu, tham lam, sân giận, si mê
* Thứ Sáu: Không nghe xem múa hát đờn kèn chổ yến tiệc vui đông
* Thứ Bảy: Không trang điểm phấn son dầu hoa và áo quần hàng lụa tươi tốt, nằm giường cao ngồi ghế lớn chổ xinh đẹp (từ vua cho đến quan lại, cận thần, hòang hậu cung phi mỹ nữ ngày xưa đều đến với Đức Phật cầu học Phật tu tập pháp xuất gia, sống bình đẳng một ngày một đêm…)
* Thứ Tám: Không ăn sái giờ từ quá ngọ đến ngọ mai, phải ăn chay.
Đó là tám giới pháp của Phật chế định, dành cho quý vị Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di phát tâm đến trước Tam Bảo thọ học tu hành từ sáu giờ sáng hôm nay đến sáu giờ sáng hôm mai cũng đến trước Tam Bảo, tụng đọc pháp hồi hướng công đức xả giới, tức là xuất gia trọn đủ hai mươi bốn tiếng đồng hồ có công đức phước huệ vô lượng từ đời nầy sang đời khác. Trong Luận Bồ Tát Bản Sinh, Phật dạy:” lợi ích của xuất gia cao cả hơn núi tu di, sâu hơn biển cả, rộng hơn hư không. Sở dĩ như vậy là do xuất gia mới thành Phật, ba đời chư Phật chưa có vị nào thành Phật mà không do nhờ tu hành pháp xuất gia cả…”
Ngài Thái Hư Đại Sư nói:”Đây là Phật vì người cư sĩ tại gia chế ra giới điều để luyện tập ngắn hạn đời sống xuất gia…”

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.


9 . NGÀY THỨ CHÍN:

Lợi ích của đời sống thọ học Bát quan Trai giới

Người phát tâm thọ học, tu tập Bát quan Trai giới không chỉ có xuất gia là cao thượng, lợi ích không đơn giản, mà còn y cứ theo giới luật Phật thì người ấy còn phải khéo tu nhẫn nhục mười việc để có cơ sở làm lợi ích nhơn thiên trong ương lai:
Thứ nhất, trời lạnh phải chịu đựng được hàn khí, chẵng nề mưa tuyết, gió sương.
Thứ hai, trời nóng phải kham nổi nắng thiêu gay gắt, chẳng quản ngại khí trời oi ả nổi lên như thiêu như đốt.
Thứ ba, phải chịu đựng được các thứ bức hại từ thiên nhiên, chẳng ngai một thứ nào cả (giãm bệnh não hại)
Thứ tư, phải chịu được ấm sét rung trời, quyết không vì vậy mà sợ sệt rúc trốn, gặp việc hung hóa ra kiết, việc dữ hóa ra hiền.
Thứ năm, khi bụng đói cồn cào vẫn chịu đựng được cơn đói khát.
Thứ sáu, miệng khô, cổ rát vẫn nhẫn được cơn khát.
Thứ bảy, nghiêm túc tuân thủ không ăn quá ngọ, mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng ngọ, hoặc hai bữa sáng và ngọ.
Thứ tám, nghiêm túc trì giữ các giới hạnh của đức Phật chế ra, cho dù lúc bị đe dọa tánh mạng, cũng không làm trái giới luật.
Thứ chín, nhẫn nhịn các ác ngữ khi nghe lời nhục mạ, chế giễu, nói bóng nói gió, nói sàm nói tấu, nói quấy người khác, phải tảng lờ không nghe, quyết không cho đó là điều ngang ngược.
Thứ mười, nhẫn chịu độc trùng làm hại. Bởi lẽ, Ấn độ là xứ nhiệt đới, các vị tỳ kheo Sa môn thường ngồi dưới gốc cây. Trong mười hai hạnh đầu đà, có pháp ngồi dưới gốc cây. Muỗi mòng và độc trùng đến bức hại, đức Phật chỉ cho phép đuổi loài độc đi, hoặc các vị Tỳ kheo phải sắp xếp nơi chốn sạch sẽ, tránh làm chổ sanh sản cho độc trùng, tuyệt đối cấm Tỳ kheo không được giết hại độc trùng, huống gì các lòai chúng sanh khác.
Mười điều ở trên, nghe có vẻ giản đơn, song biết bao người chịu không nổi mười điều nầy, nên trong Luật, Đức Phật dạy rằng:”Chỉ có đại trượng phu mới nhẫn nổi…”.
Trong kinh Hiền Ngu, Đức Phật dạy:”Cho người xuất gia hoặc tự xuất gia, hoặc già hay trẻ phước đức vô cùng…”
Kinh Xuất Gia Công Đức, Phật dạy:”nếu có người phá họai nhân duyên xuất gia của người khác, tức là cướp đọat kho báu vô tận phước thiện, hủy họai nhân của 37 phẩm trợ đạo, ở nơi bốn đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nhân, sinh ra thường đui, người nầy không có ngày giải thóat…”
Theo kinh Thiện Sanh, kinh Tăng Nhất A Hàm, Phật dạy:” các hàng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di trong những ngày mùng 1,8,14,15,23,30 (lục trai) nên đến trước các bậc xuất gia, phạm hạnh thanh tịnh để cầu thọ trai giới. Đời nay luật và giới đã bị chuyển theo hòan cảnh quốc độ, mạng sống con người dần dần suy giảm, tâm niệm hẹp hòi, giải đãi nên càng phải uyển chuyển, tùy duyên. vì thế sự tu tập phải uyển chuyển tùy duyên phát nguyện, tiến đến giải thóat.
Thọ học Bát quan Trai giới, tu học Phật pháp, tu học giáo lý Phật học, nương theo kinh sách Phật, thường xuyên nghe giảng giáo lý Phật mà tu hành. Lần lần sẽ đưa người tín đồ đến chánh trí, chánh tri kiến, Phật huệ phát sanh. Các con đường tà kiến, nghèo nàn lạc hậu do nơi đây mà không phát sinh. Các pháp tứ phủ, đồng cốt, mê tín dị đoan, lỗ ban ếm đối, bùa ngãi, người tu bị thần thánh đột nhập nói năng phát âm khác người thường (dị giáo), cho phép làm ăn, lên đồng tiên tri, bói tóan, xem tướng, xủ quẻ… do nơi thọ học Tam quy, ngũ giới cấm, tu Bát Quan Trai giới mà các tà pháp trên sẽ chấm dứt không còn xâm phạm trong chốn thiền môn, không còn xâm phạm tâm tư nguyện vọng cao thượng của người tín đồ Phật tử.
Theo kinh Ưu Bà Tắc, Phật dạy:”Thiện nam tử, nếu có người tín tâm, lãnh thọ ba pháp quy y, tám trai giới, trong một ngày một đêm thì người ấy hòan thành trai giới, giới thể được thanh tịnh dù chỉ tu tập một ngày một đêm nhưng lợi ích rất lớn…”
Người phát tâm thọ trai giới, thì người ấy được vô lượng an lạc hiện tiền gia đình an cư lạc nghiệp, vinh hiển giàu sang, hạnh phúc, tương lai cho đến đạt được cảnh giới giải thóat Niết bàn an lạc.
Mô Phật! Chúng con đã hiểu và xin thọ pháp quy y, trì giữ Bát Quan Trai giới trong những ngày không có niệm Phật tại Nhứt Nguyên Bửu Tự.
Người Phật tử Việt Nam ngày nay dù ở trong nước hay nước ngòai có những bước tiến bộ rõ rệt. Vị nào cũng muốn phát tâm thọ quy giới Tam quy ngũ giới, tu học Phật pháp, học giáo lý Phật học, đại đa số người phát nguyện xa lìa, có người phát nguyện không muốn gần gũi những hủ tục mê tín dị đoan, xem sao bói xăm, xủ quẻ.
Phật tử ngày nay họ không còn tin vào những ông đồng, bà cốt, những ông Thầy mượn danh đạo, tạo danh đời, giả bộ giả tịch ông ứng bà hành, tiên tri không sách vỡ. Người Phật tử ngày nay họ không còn tin vào những người tu nữa dời, tu không ra tu, Sư không ra Sư, Thầy không ra Thầy, không tu hành gì cả mà xưng hô vẫn biết việc trước việc sau?
Chúng ta tin tưởng rằng, một khi đã có thọ giới luật, thì tự nhiên người Phật tử sẽ không còn tin vào những việc không thực tế viễn vông làm cho chính mình phải bị mất phương hướng cả đời lẫn đạo…!
Phật tử ngày nay chăm học Phật pháp, giáo lý Phật học, thọ tam quy ngũ giới, thọ Bát quan trai giới, nhẫn đến tu gia hạnh thập thiện, hộ trì Tam Bảo nghiêm túc, hộ pháp chư Tăng Ni rất mẫu mực. Phật tử ngày nay họ đã giác ngộ, không còn tin vào tà thuyết mê tín dị đoan nữa…! Nhưng họ vẫn thành đạt một cách tuyệt đối trên bước đường đời.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

PHẦN IV
Tông chỉ Tịnh độ Non bồng
&&&

CHƯƠNG THỨ NĂM

10 . NGÀY THỨ MƯỜI:
Bá Nhựt Trì Danh hiệu Phật
(Tông chỉ Tịnh Độ Non Bồng)

Bạch Sư! Xin Sư giảng giải về pháp tu niệm Phật của Tịnh độ tông: “Bá Nhựt trì danh hiệu Phật”. Trong quá trình niệm Phật chúng con muốn được hiểu rõ ràng về pháp môn tu của Tịnh Độ Non Bồng?

Đức tôn sư khai sơn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, để làm phương tiện cho đại chúng tinh chuyên niệm Phật, dùng yếu chỉ Tịnh Độ làm tâm tông độ chúng, không lập phái để quản chúng, không dùng giáo quyền để hành đạo, lấy xương minh Tịnh Độ làm cương lĩnh, dùng pháp môn tu tứ nhiếp pháp và ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà giáo chúng.
Quá trình khai đạo tại Non Bồng, Đức Tôn Sư thường xuyên khai thị pháp môn Lễ bái niệm Phật, phát nguyện niệm Phật, Kinh Hành niệm Phật, sám hối ba tháng không nhàm trể, trú dạ lục thời tụng kinh không để mất…
Kinh hành niệm Phật trong pháp Bá Nhựt Trì Danh theo kinh Bát Chu Tam Muội: "…mỗi bước chân trái niệm NAM… bước chân phải niệm MÔ… bước chân trái niệm A… bước chân phải niệm DI… bước chân trái niệm ĐÀ… bước chân phải niệm PHẬT… Cứ như thế mọi người chậm rãi hòa nhịp từng bước đi… Đến ba mươi phút kế tiếp các liên hữu cùng đứng lại theo thứ lớp niệm Phật, những tiếng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” – rồi đến ba mươi phút kế tiếp lại quỳ niệm Phật (người lớn tuổi thì ngồi cũng không sao !) và 30 phút sau cùng, trong đó 15 phút tiếp tục ngồi niệm Phật, còn mười lăm phút cuối chuẩn bị thay đổi người niệm Phật trong hai giờ kế tiếp… Theo phép niệm Phật thì dù đi kinh hành hay đứng, quỳ, ngồi niệm Phật đều niệm danh hiệu Phật A Di Đà, mọi người đồng niệm, âm thanh thật hòa điệu, phong cách thật uy nghiêm với những chiếc áo giải thoát, tạo nên dáng vẽ oai vệ như “voi chúa” trong mỗi tâm niệm người con Phật đang tham dự khóa tu.
Người dự niệm Phật bao giờ cũng phải chấp tay, gọi là hiệp chưởng, là phong cách chính của người Phật Tử, cũng là tính cách đặc biệt của người Phật giáo. Theo phong cách hiệp chưởng của Tịnh Độ Non Bồng thì “hai ngón tay cái xếp lên nhau” ngón cái phải hay ngón cái trái xếp lên nhau đều được; đấy là phong cách riêng của người Phật Tử Non Bồng biểu hiện :”một niềm tin vững vàng, không lùi bước”, trước những trở ngại khó khăn gian khổ .
Suốt thời gian ba tháng mười ngày chư Tăng Ni, Phật tử tề tựu luân phiên niệm Phật ngày đêm “hai mươi bốn giờ trên hai mươi bốn giờ”. Khóa tu “Bá nhựt trì danh hiệu Phật” của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng thường thì được khai mạc vào lúc 21 giờ ngày mùng 8 tháng 8 âm lịch hằng năm, đến 21 giờ, ngày 17 tháng 11 âm lịch lễ vía Phật A Di Đà thì mãn khóa tu , tức là đúng 100 ngày, nên gọi “Bá nhựt Trì Danh niệm Phật”.
“Bá Nhựt Trì Danh niêm Phật” là phương pháp niệm thể theo lời Phật dạy cho Ngài Bồ Tát Hiền Hộ, trong Kinh Bát Chu Tam Muội. Phật dạy như sau :”Nầy Hiền Hộ ! Có bốn pháp thành tựu niệm Phật Tam Muội Hiện Tiền : một là không có tư tưởng chúng sanh dù trong khoảnh khắc – hai là thức trọn ba tháng không ngủ, dù là tạm thời đôi chút – ba là kinh hành niệm Phật trọn ba tháng – bốn là trong lúc ăn, bố thí pháp không mong danh lợi, không mong đáp ơn…”. Bốn pháp nầy nếu người tu thành tựu, sẽ đắc Tam Muội Hiện Tiền (kinh Bát Chu Tam Muội, quyển 2, phẩm 3, Tam Muội Hành, trang 113, bản dịch Minh Lễ, phát hành năm 1968 - HT Giác Quang thuyết giảng tại Quan Am Tu Viện năm 2003).
Xuất phát từ lời Phật dạy trên, ngày xưa năm 1935 Ban Giám Đốc Thích Học Đường Lưỡng Xuyên Phật Học, Trà Vinh, do Trưởng lão thượng Khánh hạ Hòa làm Đốc Học Sư Trường Phật Học, Trưởng lão thượng Khánh hạ Anh làm Pháp Sư - Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Viện Chủ Chùa Chánh Giác, Gia Định và một số Tự Viện có đại chúng tu học đông đã có tổ chức cho chư Tăng Ni, Phật Tử thực hành pháp “Kinh hành Niệm Phật Bát Chu hiện tiền”, tức “khóa tu bá nhựt trì danh niệm Phật”.
Đến năm 1957, sau khi khai sơn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, theo lời thỉnh cầu của Chư Tăng Ni trong tông phong, quý chư Tăng đệ tử của Đức Đại lão Hòa Thượng Pháp Chủ thượng Khánh hạ Anh, quý vị cựu Tăng sinh Phật Học Viện Lưỡng Xuyên, Hòa Thượng Tôn Sư thượng Thiện hạ Phước lần đầu tiên tổ chức khóa tu “Bá Nhựt Trì Danh hiệu Phật” tại Tổ Đình Linh Sơn, núi Bồng Lai (Non Bồng) theo cách thức “kinh hành niệm Phật”. Nhưng có chế tác đi, đứng, ngồi, quỳ… bố trí sắp xếp chư Tăng Ni, Phật Tử luân phiên niệm Phật suốt 14 tuần lễ và 48 tiếng đồng hồ, tức 100 ngày .
Phương pháp niệm danh hiệu Phật A Di Đà nầy có thể dẫn tâm hành giả đến “nhất tâm bất loạn”, người phước mỏng nghiệp dầy, chướng sâu tội nặng, nếu tinh chuyên thì cũng có thể chứng được, bất niệm tự niệm, vãng sanh Tây phương Cực lạc.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.


11 . NGÀY THỨ MƯỜI MỘT:

Đạo tràng niệm Phật là thuyết pháp

Bạch sư! Có người hỏi, Nhứt Nguyên Bửu Tự tổ chức niệm Phật không có tổ chức thuyết pháp, có thể gặp trở ngại trong phương pháp truyền thừa? Xin Sư chỉ dạy cho chúng con được rõ? Sinh họat khóa niệm Phật ở Nhứt Nguyên ngày càng lớn lên, đạt đỉnh điểm tầm vóc quy mô, người người đến đăng ký niệm Phật đông dầy, ngày đêm không dứt, chư Tăng Ni khắp các địa phương đến đăng ký niệm Phật và chấp hành đúng quy trình của bổn tự. Nam nữ Phật tử khắp mười phương đến niệm Phật như mùa trẩy hội, không cần phải mời gọi, nhắn gởi thư từ… Nhiều nơi tổ chức niệm Phật, không có quy định thời gian lâu dài như ở đây, tối đa là bảy ngày và mỗi ngày chỉ niệm có mười hai tiếng đồng hồ rồi ai nấy về nhà nghỉ, nhưng có điểm đặc biệt là nghiên về nghệ thuật âm nhạc, thư giản và có tổ chức thuyết pháp cho Phật tử vừa tu vừa học, còn ở đây thì không, xin Ngài giảng giải ?

* Khóa niệm Phật Nhứt Nguyên Bửu Tự là do Đức Tôn Sư thượng Thiện hạ Phước và Ni Trưởng Huệ Giác sáng Tổ, dành cho người có tâm tu hành, tâm cầu đạo (thức tĩnh), tâm muốn thóat tục, có ý thức tu hành (giác ngộ)… những hạng người nầy không ít trong xã hội, nên mọi người đến đây không phải để dòm ngó, xem chừng, mà mọi người đến đây vì để “cầu đạo” niệm Phật, không còn nghĩ suy gì nữa.
* Niệm Phật thì niệm Phật, nghe pháp thì nghe pháp - niệm Phật là một hạnh, nghe pháp là một hạnh – tổ chức khóa tu niệm Phật thì không tổ chức thuyết pháp – tổ chức thuyết pháp thì không tổ chức niệm Phật – theo Kinh nghĩa đại thừa của Phật thì niệm Phật là tu, mà nghe pháp cũng là tu, mà tu chính là sữa đổi, làm mới lại những lối mòn xưa cũ, kiến tạo môi trường sống đạo, thay xấu thành tốt, thay lành bỏ dữ, thay đổi cái chưa tốt thành tốt tòan diện, thay những cố chấp thành phá chấp..để đi đến thiện mỹ… đã nói là tu hành thì phải hướng đến “nhứt hạnh tam muội”, nhứt hạnh là không tạp hạnh, không có nhiều hạnh xen vào, mà tạp hạnh thì khó tập trung, không tập trung được thì làm gì có tam muội (định), không định thì sanh tạp niệm, tức là không niệm chi cả, không còn chánh niệm nữa rồi. Thế nào là Nhứt Hạnh tam muội ?
Trong kinh Văn Thù Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Ngài Văn Thù Sư Lợi là bậc đại trí tối tôn tối thượng hỏi Phật “ Bạch Đức Thế Tôn ! Thế nào là tam muội Nhứt Hạnh ? – Phật dạy : “Pháp giới nhứt tướng, chăm chú theo dõi (niệm danh hiệu Phật là đề mục giữ chánh niệm) gọi là tam muội Nhứt Hạnh...
…Đức Phật nói tiếp : “Thiện nam thiện nữ nào muốn thể nhập tam muội Nhứt Hạnh nên ở chổ thanh vắng, xả bỏ những ý nghĩ lọan động không giữ lại bóng dáng ngọai cảnh, nhiếp tâm chuyên nhứt hướng về Đức Phật một lòng xưng danh hiệu Phật, tùy theo phương hướng đức Phật mình xưng danh đang ngự ngồi ngay ngắn lại mặt hướng về phương đó, nếu chuyên chú theo dõi nơi một niệm, niệm được liên tục tức trong niệm đó có thể thấy các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại… thành tựu niệm Phật”. (Niệm Phật Viên Đốn, trang 50,51, bản dịch Minh Lễ, PL 2512)
Thầy Tổ xưa đã giáo hóa cho Tăng Ni Phật tử tập trung “tinh chuyên niệm Phật”, niệm danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”, đi kinh hành niệm Phật, đứng, ngồi, quỳ niệm Phật, suốt hai mươi bốn giờ, mỗi chúng đăng lâm niệm một giờ bốn mươi lăm phút, rồi thay chúng khác cứ như thế suốt một trăm ngày, không hạnh nào xen tạp (tư huệ), cũng là việc khó làm, mà Thầy Tổ đã dạy Tăng Ni, Phật Tử thực hành, thực hành được thì thành tựu niệm Phật (tu huệ)
Nói về hạnh tu “nghe thuyết pháp” cũng là hạnh lành gia cố cho người phát tâm tu Phật (văn huệ). Trong sách nhan đề :”Tiến trình tu chứng và thực nghiệm của tác giả Người Mây Trắng, trang 112 nói : “…ở Nhứt nguyên tổ chức niệm Phật, nhưng không tổ chức thuyết pháp…” – Thật ra không phải là không tổ chức thuyết pháp, chỉ vì nơi đây là trú xứ “niệm Phật” dành cho các liên hữu từ khắp bốn phương đến tĩnh tu tịnh niệm… vì mọi người muốn thực hành (tu huệ), còn nghe pháp (văn huệ) thì các vị đã nghe rồi, học rồi, vì có học mới biết, nên mới phát tâm đến đây để thực hành niệm Phật. Việc thực hành niệm Phật của Tăng Ni, Phật Tử không khác lời dạy của Phật trong Kinh Văn Thù Sở Thuyết Bát nhã Ba La Mật, trang 51 : “..trước khi niệm Phật, nên nghe pháp Bát Nhã Ba La Mật, rồi sau mối đăng lâm đạo tràng niệm Phật…”.

Nghe pháp là gia hạnh niệm Phật (trí)
Thực hành là tinh chuyên niệm Phật (hạnh)

* Trường hợp chư Liên hữu đang tham dự niệm Phật, muốn nghe thuyết pháp, sẽ được giới thiệu về tại Quan Am Tu Viện – Biên Hòa, vào mỗi nữa tháng, lúc nào cũng rơi vào ngày chủ nhật để học Phật pháp và giáo lý Phật học. Quý vị sẽ được nghe kinh từ tám giờ ba mươi phút sáng đến mười giờ ba mươi phút sau đó “ thọ thực kinh hành niệm Phật” rồi trở về Chùa Nhứt Nguyên niệm Phật cũng được.
Nghe Sư dạy đến đây tôi thấy lòng mình an lạc lắm, có lẽ từ lực Bồ tát độ trì tôi, nên thấy mạnh mẽ thêm lên, vang vọng đâu đây tiếng pháp lành của Thầy Tổ dạy : “các vị tinh chuyên Niệm Phật Bá Nhựt Trì Danh bất thối chuyển”.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

12 . NGÀY THỨ MƯỜI HAI:

Niệm Phật thích nghi với các bạn trẻ

Bạch Sư! Chúng con thường nghe một vài tín đồ bảo là pháp môn niệm Phật ít phù hợp với tuổi trẻ, các gia đình trẻ. Các gia đình trẻ thì thích tu thiền, theo Sư tu thiền hay tịnh có lợi ích ngang nhau không? Pháp nào dành cho tuổi trẻ phù hợp nhất?

Theo giáo pháp Phật, thì pháp môn nào cũng phù hợp với mọi căn cơ trình độ chúng sanh, không có vấn đề pháp môn Thiền phù hợp với tuổi trẻ, Tịnh Độ không phù hợp với tuổi trẻ, hay ngược lại; các pháp môn tu của Phật đều có khế cơ và khế lý, được áp dụng tùy hoàn cảnh người tín tâm mà thực hành, nên không có vấn đề hợp hay không hợp.
Sau đây, chúng tôi xin trích một câu chuyện một gia đình trẻ đi tu theo pháp môn “Bá nhựt trì danh hiệu Phật” của Cư sĩ Thiện Lạc để các bạn tiện đọc và suy gẩm (trích trong sách Trọn Một Niềm Tin, của HT Giác Quang)…
Gia đình Thanh An là Phật Tử truyền thống kính tin Tam Bảo, gia đình bạn có hai cháu : cháu trai là Minh, cháu gái là Tuệ rất ngoan, biết vâng lời Bố Mẹ, học giỏi, siêng năng. Cháu Minh học lớp Ba, cháu Tuệ học lớp Một. Nhà tôi ở gần nhà Thanh An; được biết Thanh An làm việc tại Phòng Văn Hóa của một Thị trấn quê nhà, vợ Thanh An làm Hiệu Trưởng kiêm luôn Giáo viên Trường Mẫu giáo Hoa Hướng Dương. Đồng lương hằng tháng vợ chồng thu hoạch ở mức độ trung bình - Đối với một gia đình hạng sang thì không đủ chi dụng, nhưng với gia đình trung lưu như Thanh An thì đủ ăn và dưỡng nuôi hai cháu đi học trong thời gian các cháu còn học ở Trung học. Song nếu tính đến tương lai, khi lên Đại học, thì gia đình Thanh An chỉ tạm đủ để bảo đãm cho các cháu trở thành sinh viên.
Nói gì thì nói, hiện tại tôi biết gia đình bên đó sung túc, các cháu rất yên tâm đi học và vui sống hạnh phúc trong tầm tay Bố Mẹ đỡ nâng.
Chiều nay thứ Bảy, nhằm vào mùa Trung thu, cũng là mùa có khai mở khóa niệm Phật ở Nhứt Nguyên Bửu Tự (nghe nói chư Tăng Ni, Phật Tử đã quen gọi thời gian nầy là : “mùa niệm Phật”). Tôi có dịp đi cùng bạn và gia đình đến Chùa đăng ký dự vào đoàn niệm Phật.
Tôi và Thanh An được bố trí kinh hành niệm Phật từ 18 giờ đến 20 giờ, tôi vui thích lắm, rất hân hạnh được quý Sư Thầy cho nhập chúng niệm Phật!
Đúng giờ, chúng tôi xin phép quý Sư Thầy vào Chính điện lễ Phật, dự vào hàng đại chúng niệm Phật. Đại chúng gồm một đoàn người khoãng 90 vị nam nữ Phật Tử (xếp thành ba vòng tròn, đi kinh hành niệm Phật), thêm vợ chồng Thanh An và tôi nữa là 93 vị, được bốn vị Sư hướng dẫn đi kinh hành, cộng là 97 vị. Còn cháu Minh và Tuệ được Bố Mẹ sắp xếp ngồi cạnh Đại hồng chung, gần chị Phật Tử đang vừa niệm Phật, vừa đóng Đại hồng chung. Với những âm thanh nhặt khoan của Đại hồng chung ngân vang nghe lạ tai, gây chú ý cho Minh,Tuệ thật thú vị vô cùng. Minh,Tuệ cũng rất dạn dĩ, hoan hỷ khi nhìn Bố Mẹ hòa nhịp vào dòng người “vừa đi vừa chấp tay niệm Phật”, cảm tình với Chị Tâm, một Phật Tử trẻ trung đang ngồi đóng Đại hồng chung; các cháu rất ưng dạ vui lòng, cảm thấy gần gũi và chấp nhận được .
Sau ba mươi phút đầu kinh hành niệm Phật : chúng tôi thực hành đi chầm chậm đúng theo lời chỉ dạy của đoàn người tu trước : …mỗi bước chân trái niệm NAM… bước chân phải niệm MÔ… bước chân trái niệm A… bước chân phải niệm DI… bước chân trái niệm ĐÀ… bước chân phải niệm PHẬT… Cứ như thế và với dáng vẻ đoan trang, nghiêm nghị, mọi người chậm rãi hòa nhịp từng bước đi… Đến ba mươi phút kế tiếp các liên hữu cùng đứng lại theo thứ lớp niệm Phật, những tiếng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thật trong trẻo, thanh thoát vô cùng; rồi đến ba mươi phút kế tiếp lại quỳ niệm Phật (người lớn tuổi thì ngồi cũng không sao !) và ba mươi phút sau cùng, trong đó mươi lăm phút tiếp tục ngồi niệm Phật, còn mười lăm phút cuối chuẩn bị thay đổi đoàn người niệm Phật trong hai giờ kế tiếp… Phép niệm Phật ở đây dù đi kinh hành, đứng, quỳ, ngồi niệm Phật đều niệm danh hiệu Phật A Di Đà, mọi người đồng niệm, âm thanh thật hòa điệu, phong cách thật uy nghiêm với những chiếc áo tràng lam, nâu, chiếc áo giải thoát, tạo nên dáng vẽ oai vệ như “voi chúa” trong mỗi người con Phật đang tham dự khóa tu.
Người dự niệm Phật bao giờ cũng phải chấp tay, gọi là “hiệp chưởng”, hiệp chưởng là phong cách chính của người Phật Tử, cũng là tính cách đặc biệt của người Phật giáo. Theo phong cách hiệp chưởng của Tịnh Độ Non Bồng thì “hai ngón tay cái xếp lên nhau” , ngón cái nào xếp lên nhau cũng được, đấy là phong cách riêng của người Phật Tử Tịnh Độ Non Bồng, biểu hiện :”một niềm tin vững vàng, không lùi bước”, trước những trở ngại khó khăn gian khổ .
Theo lời của quý Sư trong Ban tổ chức, chúng tôi được biết : suốt một tuần lễ từ thứ hai đến thứ sáu thì chỉ có chư Tăng Ni, chư vị nam nữ Phật Tử lớn tuổi, những bậc cha mẹ rảnh rang việc nhà, nên đăng ký ở lại Chùa suốt thời gian ba tháng mười ngày cùng nhau luân phiên niệm Phật ngày đêm “hai mươi bốn giờ trên hai mươi bốn giờ”. Riêng ngày thứ Bảy, Chủ Nhật thì số người niệm Phật đông dầy, nhất là ngày và đêm Chủ Nhật có khi lên đến hằng năm trăm, sáu trăm vị. Về việc ăn uống hằng ngày, có các Đạo tràng Phật Tử của các Tự Viện, Tịnh xá, Tịnh thất trong tông phong Non bồng, cũng như các Nhà hảo tâm, Nhà mạnh thường quân thường xuyên ủng hộ cúng dường, nên phần lương thực, thực phẩm không bao giờ thiếu.
Vợ chồng Thanh An, sau khi mãn thời niệm Phật đến hướng dẫn hai con vào trước Tam Bảo đảnh lễ Phật, sau đó được mời về phòng khách giải lao. Cháu Minh,Tuệ được quý Sư Cô thương mến, nhận được nhiều tiếng khen và được thưởng hai phần bánh trung thu vừa ý; còn Bố Mẹ thì hầu chuyện vui vẻ với quý Sư… Vợ chồng Thanh An và các cháu Minh,Tuệ ra về vào lúc 21 giờ 40.
Tôi là một công nhân viên của Trung tâm Tin học, cũng là Phật Tử mới quy y còn chập chững lắm, không thuần thục bằng gia đình Thanh An! Cũng phải học từng bước từng bước, cũng như phải học đi kinh hành từng bước theo dòng người niệm Phật bước đi cho đến khi hết giờ. Bước kinh hành của vợ chồng Thanh An thì vững vàng, còn bước kinh hành của tôi thật là lạng quạng, có lúc muốn té qua té lại, nghĩ lại cũng hơi ngại, thật mắc cười!

Khóa tu “Bá nhựt trì danh hiệu Phật” tại Nhứt Nguyên Bửu Tự được tổ chức với thời gian ba tháng mười ngày, và theo truyền thống thì khóa tu được khai mạc vào lúc hai mươi mốt giờ ngày mùng tám tháng tám âm lịch hằng năm. Chư Liên hữu Tăng Ni, Phật Tử đến tham dự vào hàng “thánh chúng tinh chuyên niệm Phật” đến ngày mười bảy tháng mười một âm lịch lễ vía Phật A Di Đà thì bế mạc mãn khóa, tức là đúng một trăm ngày, nên gọi “Bá nhựt Trì Danh hiệu Phật”.
Phương pháp niệm danh hiệu Phật A Di Đà nầy có thể dẫn tâm hành giả đến “nhất tâm bất loạn”, người phước mõng nghiệp dầy, chướng sâu tội nặng, nếu tinh chuyên thì cũng có thể chứng được “vô niệm tự niệm”. Pháp môn niệm Phật cũng rất phù hợp với tuổi trẻ, kể cả tuổi già, trung niên; nói chung pháp Phật thì phù hợp với ba căn, phù hợp với người già, người trẻ.Người biết phát tâm đến với Phật pháp thì gặp pháp nào cũng tu được, người không kỳ thị pháp môn mới là Phật tử chân chính, mà cũng chính là nguồn hạnh phúc vô biên của những người con Phật.

Phật giáo với tuổi trẻ và sự thành đạt:
Nhân bài pháp “Niệm Phật thích nghi với tuổi trẻ” Sư muốn nói thêm đến quý liên hữu về tuổi trẻ với Đạo Phật và sự thành đạt khi các bạn hữu duyên lành trở thành người đệ tử đức Phật và danh dự làm người Phật tử.
Chào các bạn ! Trước nhất chúng tôi chân thành gởi tới các bạn lời chào thân ái trong niềm tin Phật Pháp, niềm hoan hỷ tin yêu cùng sống chung trong ngôi nhà giáo pháp Đức Phật (trích trong sách Trọn Một Niềm Tin, Hạnh Niệm Phật của HT Giác Quang)

1/. Nhận định tình hình thực tế :
Trong giai đọan tòan cầu hóa, nền văn minh của khoa học đã lộ dần sự tiến hóa đúng theo quy luật sanh, trụ, dị, diệt, nhiều vấn để đặt ra cho giới trẻ của Đạo Phật có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội, môi trường… cần có những định hướng giác ngộ mà giáo lý vị tha vô ngã theo giáo nghĩa đại thừa đã nêu. Trong cuộc sống người con Phật phải có sự “kiên quyết huân tu, tìm cầu an lạc” để đạt quả vị hiện tại và tương lai, cũng như trên bước đăng trình trưởng dưỡng tri thức mưu cầu thóat nẽo vô minh, chắc chắn bạn sẽ đạt được đạo quả. Khi đã thành công trong cuộc sống thì sự đóng góp cho cộng đồng sẽ đạt hiệu quả và đem lại cho bạn một lẽ sống trong môi trường tốt về đạo đức tâm linh.
Đó là những vấn đề mà các bạn và chúng tôi thường quan tâm.

2/. Phát huy tri thức :
Trong thời điểm Đức Phật tại thế, cuộc sống xã hội loài người còn giản đơn, mà biết bao vấn đề như lạc hậu, nghèo nàn, giai cấp, tranh chấp, phân quyền, áp bức… cần phải giải quyết. Trong khi chỉ có một quan điểm duy nhất là phải tìm ra nguyên nhân và giải pháp phát huy tri thức “tứ diệu đề” và “đạo bát chánh”; đồng thời theo giáo pháp Đức Phật chính con người sẽ là “chủ nhân ông” giải quyết thành tựu tất cả mọi vấn đề. Sự phát huy về tri thức đã từng giúp cho con người “những người đệ tử Phật”, thành tựu Phật đạo, xóa tan giai cấp, mọi người sống bình đẳng an lạc trong Tăng đòan. Thời đại ngày nay lòai người biết phát huy cuộc sống và biết phát triển mọi vấn đề tương quan trong cuộc sống, nhưng lại có phần lãng quên và dẫn đến suy thoái, băng họai về mặt đạo đức; thường thì giới trẻ khi bước chân vào đời khó tìm nơi nương tựa, không có chổ nương thân, tạo điều kiện chỉ biết có bản thân, nên không có niềm tin hay thiếu niềm tin, hay chính tự họ đánh mất niềm tin, mọi sự “xu bồ”, “sát phạt lẫn nhau” đang diễn ra trên khắp hành tinh.
Vậy con người muốn đứng vững trước những tham sân si, phong ba bão táp, trước những môi trường khí hậu đang bị xâm phạm, thường xuyên xảy ra những hiệu ứng nhà kín khói bụi mịt mờ, băng tan, nước dâng, hơi nóng bùng phát, trái đất giận dữ tạo nên những hiện tượng sóng thần, núi lữa, đem bom đạn giết hại lẫn nhau không thương tiếc… các bạn nên tìm cầu tu học Phật Pháp, nép mình vào chơn lý của Đức Phật, chọn cho mình một hướng đi đích thực, trưởng dưỡng phần tri thức nội tâm, làm lại những gì đã mất.
Đạo đức của Đức Phật được phổ cập trong đời, sự tín ngưỡng về Đức Phật sẽ có mặt trong tình cảm thầy trò, bạn bè, vợ chồng, cha con, tư cách làm người… Theo đạo đức Phật giáo thì sự sinh họat của con người thường thì được chia thành hai phần tâm linh và hình thức, chúng ta tạm chia thành bốn nhóm :

1/. Tâm từ bi – tướng hảo quang minh
2/. Tâm từ bi – tướng bất hảo
3/. Tâm bất lương – tướng hảo
4/. Tâm bất lương – tướng bất hảo

Nếu bạn ở nhóm một thì thật tuyệt vời, nhóm hai cũng rất tốt, nhưng nhóm ba và bốn thì nên tinh tấn tu học để chuyển nghiệp, khi tinh tấn tu học Phật thì trí tuệ sẽ phát sinh, cuộc đời thay đổi và mọi việc lành sẽ đến với các bạn. Trong giai đọan hiện nay, xã hội hay đánh giá con người qua hình thức giàu nghèo, có học vị, có tiền của, có quyền thế… nhưng tâm thì không tốt, không biết hướng thiện thì chỉ được đánh giá là những tấn tuồng đang diễn trên một “sân khấu ảo”, sau bức màn vô minh liên tục được kéo lên và các kịch sĩ trình diễn một màn “quên lãng”. Do đó mà các bậc minh sư đạo cao đức trọng thường thuyết pháp hướng thiện mọi người “thấy biết lẽ chánh, tìm nguyên nhân khổ và thóat khổ” vượt ra ngoài cương tỏa của “sân khấu ảo”, hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ tình thương yêu đồng lọai… Cho thấy sự truyền trao đạo lý của nhà Phật từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, chuyển dịch theo không gian và thời gian luôn có lợi ích thiết thực, nhằm giúp cho họ an trú trong chánh pháp.

3/. Chọn pháp tu :
Chắc chắn rằng, khi mang thân người, phải trải qua nhiều thử thách, nên cần phải nuôi chí lớn, gần gủi chư Tăng Ni quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới cấm, chọn pháp tu “Thập thiện,Tứ nhiếp pháp”, thường xuyên đến chùa “niệm Phật,yên lặng” hay “thực tập thiền tụng” các pháp nầy rất cần thiết giúp bạn đạt đến cực điểm an lạc, sự an lạc chỉ xuất hiện khi sự thực tu thực học có mặt trong cuộc sống. Người Phật tử phải tinh tiến tu hành, vượt lên trên chính mình và tự giác mưu cầu hạnh phúc, từ đó khi gặp việc không vừa lòng xứng ý, phiền não sẽ không xuất hiện. Nghiệp báo sẽ không còn trói buộc kéo lê tấm thân khổ đau trong miên viễn. Đấy là chúng ta đã chọn đúng pháp môn giải thóat sanh tử, nghiệp báo luân hồi.

4/. Giải quyết một vài vần đề :
* Với tứ ân :
Khi bạn đã quy y Tam Bảo thọ trì ngũ giới cấm, bạn là người có trình độ học vấn, việc làm ổn định, hạnh phúc trong hôn nhân, cần có sự hiếu thảo với mẹ cha, tôn kính Thầy học đạo, là bạn tốt với quần chúng, bảo vệ quê hương, hộ quốc an dân thì bạn sẽ được chào đón một tương lai huy hòang rực rỡ.
* Công danh và thành đạt :
Đạo Phật là đạo giải thóat, người thực hiện tiêu chí giải thóat là chư tôn đức Tăng Ni, cư gia là những người nối gót, hổ trợ cho chư Tôn Đức Tăng Ni, nên rất có những lực tu hành theo tiêu chuẩn Tam quy ngũ giới, Bát Quan Trai giới, Thập thiện giới… Ngòai việc trong Đạo các vị Phật tử trẻ hôm nay cần phát huy công danh sự nghiệp cho vững vàng, dù học ít hay nhiều, nhưng các bạn phải chọn cho mình một sự nghiệp vững chắc để được thành đạt.
Các bạn là những bức thành trì kiên cố bảo vệ chánh pháp, trách nhiệm của các bạn phải thành đạt sự nghiệp, thành tựu vai trò cư gia mới xứng danh là “rường cột” và có cơ sở bảo vệ chánh pháp.
* Người con Phật cũng biết làm giàu :
Hãy làm giàu hợp pháp, chân chính, không chỉ vì ham giàu mà làm việc phi pháp, quả báo liền đến cắt đứt tương lai các bạn. Là Phật tử bạn biết cách làm giàu cho bản thân và gia đình, thì cũng phải biết cách làm giàu cho xã hội quần chúng, chính đấy là bốn mươi tám lời nguyện của Đức Phật A Di Đà đã phát thệ nguyện “xây dựng thế giới an vui cho chúng sanh” trong kinh Vô Lượng Thọ. Mình thóat nghèo, dốt nát làm cho mọi người thóat nghèo, dốt nát chính đó là tiêu chí giải thóat tòan diện, y báo và chánh báo của thế giới Tây phương Cực Lạc xuất hiện trước mắt bạn và mọi người.
* Kiến thức và học vị :
Ở vào thời trung cổ, là thời gian văn minh vật chất khoa học chưa cao, sự đòi hỏi cho nhu cầu cuộc sống chưa có, tri thức con nguời còn nguyên vẹn, thiên tài kiến thức hay xuất hiện giải quyết thành tựu mọi vấn đề nhưng học không cao. Ơ thế kỷ 21 là khõang thời gian dành cho các bạn trẻ, kiến thức và học vị là một trong những cấu trúc trọng yếu của xã hội, nếu bạn thiếu nó, không phát huy tri thức ngang với cuộc sống chung trong mọi tầng lớp, thường thì tạo nên lổ hỗng rất lớn, đến độ xảy ra chiến tranh, các quốc gia tranh lấn đường biên giới, tranh chấp quyền bính, thiếu vắng đạo đức…
Vì vậy khi được nuôi lớn lên trong gia đình, bạn cần phải chuyên tâm trì chí đến trường tinh chuyên học tập, theo xã hội hiện nay, bạn mù chữ thì xem như người khiếm thị không thấy ánh sáng, học ít thì chẳng làm được gì, Bạn cần học tập đạo đức, phát huy tri thức đi đôi với học vị, như đảnh ba chân sẽ đứng vững. Đạo đức kiến thức và học vị sẽ giúp bạn thành đạt.
* Việc hôn nhân :
Ngày nay trong xã hội Phật giáo có một vài vấn đề nổi cộm mà mọi người, nhất là Phật tử cần quan tâm, nhưng rất ái ngại trong việc tham vấn học Phật Pháp, nên khi gặp phải hòan cảnh xuất hiện thì âu lo bất ổn, đó là vấn đề hôn nhân với người thuộc “tôn giáo bạn”.
Việc kết hôn với gia đình Phật Tử thì không phải luận bàn, nhưng kết hôn với người bên “tôn giáo bạn” có phạm quy nhà Phật hay không ? Nếu vì mưu cầu hạnh phúc mà Phật tử kết hôn với “bạn đời” là người thuộc “tôn giáo bạn” thì Phật tử nên theo “tôn giáo bạn”, nhưng bạn cần phải bảo trì quy giới, năm giới mà các bạn đã phát nguyện thọ trì. Người Phật tử cần có sự hiểu biết về cương lĩnh giáo pháp của Phật, khi bạn trì giới thì dù ở hòan cảnh nào thì bạn vẫn là Phật tử thuần thành. Sau khi kết hôn hãy dùng lòng yêu thương từng bước một mà giúp “bạn đời” tìm hiểu ý nghĩa sâu rộng của Phật Pháp, sống đúng chánh pháp. Làm một Phật tử tốt thì dù sống trong môi trường nào cũng là Phật tử tốt, chính đó là tâm quyết với Phật, cũng chính là sự biểu hiện sự chung thủy của Phật tử càng yêu “người bạn trăm năm của mình”, xóa tan những dị biệt cục bộ, lạc hậu.

5/. Ánh sáng niềm tin :
Quá trình tu học Phật pháp của giới trẻ, là “hành trình của niềm tin”, hãy vượt mọi trở lực dũng tiến theo pháp môn “việc lành nhỏ không bỏ, việc ác nhỏ không làm” để “vượt khó” vững tin mà bước vào “con đường bát chánh”… không gian sông núi Phật pháp sẽ “hừng sáng” theo từng nhịp tim của các bạn :

Bao nhiêu sông nước bao trăng hiện
Mấy dậm mây tan mấy dậm trời

Sự giải thóat thật sự đến với các bạn, giải thóat từng hơi thở, niềm tin yêu xuất hiện trên cuộc đời, không còn một ràng buộc nào có thể giữ bạn lại. Chúng ta cũng không còn “tụt hậu”, bạn đã bước đến tương lai nơi chân trời mới, sau một giấc ngũ dài khi tĩnh dậy

Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Cho ta thêm một ngày nữa, sống đễ yêu thương.

Qua phần trình bày, trao đổi nầy dù chưa giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội đặt ra cho các Phật tử trẻ. Tuy nhiên cũng có thể giúp các bạn làm hành trang vào đời sẳng sàng lắng nghe, học tập những kinh nghiệm cách ứng xử hay đẹp để phát triển và thành đạt trong cuộc sống.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

CHƯƠNG THỨ SÁU

13 . NGÀY THỨ MƯỜI BA:
Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng

Bạch sư! Chúng con nghe danh hiệu pháp môn tu là Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng. Sao gọi là Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, không dùng danh hiệu Tịnh Độ khác cho phù hợp với thế gian hơn. Nhiều người khi nghe Tịnh Độ Non Bồng thì chưng hửng, không biết pháp phái nầy ở đâu, nghe lạ tai, xin Sư từ bi hoan hỷ giảng giải cho chúng con được am tường?

* Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng là một môn phái do Đức Tôn Sư Đại Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước, húy Nhựt Ý, thuộc dòng Lâm Tế gia phổ thứ 41 khai sơn vào năm 1957 tại Tổ Đình Linh Sơn, núi Dinh, xã Phước hòa, quận Long Lễ, tỉnh Phước Tuy; nay thuộc ấp Phước Thành, xã Tân Hòa, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu .
Năm 1955, Đức Tôn Sư cầu học Phật pháp với Đức Sư Ông thượng Bửu hạ Đức, tại chùa Bửu Quang, núi Dài Văn Liên, Châu Đốc. Được Sư Ông truyền trao giáo pháp “Pháp môn niệm Phật. Thời gian học Đạo với Sư Ông không lâu. Một ngày nọ, Tôn Sư đến gần Sư Ông và nói :
- Con muốn giống Đức Ông Ba ?
- Muốn thì được ! nhưng phải về miền Đông hành Đạo thì nên.
Tôn Sư đảnh lễ Sư Ông, đăng trình về Long Sơn Cổ tự, xã Tân Ba, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa; nay là xã Thái Hòa, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương hành đạo. Tại đây Tôn sư cầu pháp với HT thượng Trí hạ Châu, hiệu Hồng An, dòng Lâm Tế gia phổ thứ 40, được ban pháp hiệu là Nhựt Ý.
Đầu năm 1957, Đức Tôn Sư về núi Dinh, vào ở tại điện Phổ Đà ẩn cư tu tịnh. Lúc bấy giờ quý Phật tử thường xuyên về núi non quy y thật đông đảo, Tôn Sư đành phải xuất thân hành đạo, tế Tăng độ Chúng. Được Ngài Trụ trì, gọi tắt là Yết Ma MỐI tín ngưỡng, ký giấy giao Tổ Đình cho Tôn Sư làm phương tiện hành đạo .
Đệ tử quy y Tam Bảo đông, đệ tử xuất gia cũng đông, trong đó có vị Ni tu hành trí tuệ tuyệt vời, nay là Ni Trưởng thượng Huệ hạ Giác, Viện Chủ Quan Am Tu Viện .
Đức Tôn Sư khai sơn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng vào ngày 15 tháng 07 năm Đinh Dậu, 1957 .
Theo từ ngữ Phật học, thì Liên Tông là tông phái Hoa Sen, tức Tịnh Độ Tông, một Tông phái dạy người tu, tưởng niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà. Về lợi ích thì hiện tiền cũng như tương lai, khi được chánh niệm, sẽ tạo nên một môi trường thân tâm thanh tịnh trong sáng, hạnh phúc, an lạc thực tiển. Cõi an lạc thì không có những cấu uế phiền não thế gian. Không còn có những khổ đau, sống chết, họp tan, giàu nghèo phân ranh giai cấp.
Đức Tôn Sư là người được thừa kế truyền thừa pháp môn niệm Phật, chủ yếu trợ duyên cho những người con Phật dễ chấp nhận, dễ tu dễ chứng. Nên gọi Liên Tông .
Tịnh Độ cũng gọi là Liên Tông, một tông phái dạy về pháp môn quán tưởng niệm Phật, để vãng sanh về cõi Tịnh Độ. Người tu Phật tin có lực cứu độ của Đức A Di Đà và thường niệm danh hiệu của Ngài. Hiện tiền cũng như tương lai được sanh về thế giới của Phật A Di Đà .
Tông Tịnh Độ được Ngài Huệ Viễn Đại Sư sáng lập ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ Bảy, du nhập vào Việt Nam hồi thế kỷ thứ 11 tại miền Bắc Việt Nam (tại chùa Tiên Du, Bắc Ninh ngày nay).
Năm 1934, Đức Pháp Chủ thượng Khánh hạ Anh, mở trường Phật Học Lưỡng Xuyên ở Trà Vinh, nơi đây đã khai sơn hoằng truyền pháp môn niệm Phật, mở khóa “Niệm Phật Bá Nhựt Trì Danh”
Năm 1955, Đức Đại Lão Hòa Thượng thượng Trí hạ Tịnh, xương minh Tịnh Độ tại Vạn Đức Tự, Tam Hà, Thủ Đức, Ngài thành lập Cực Lạc Liên Trường, vừa dịch kinh, vừa dạy khuyên người người niệm Phật, khai mở nhiều khóa tu Phật thất, truyền thừa pháp môn đến ngày nay. HT thượng Trí hạ Tịnh là nhà dịch giả dịch các bộ Kinh Đại Thừa được Tăng Ni, Phật Tử tôn kính là Ngài La Thập tái sinh.
Ngoài ra còn có Hòa Thượng Thích Hành Trụ, là nhà dịch giả, cũng hoằng truyền Tịnh Độ, khai khóa “Niệm Phật Bá Nhựt trì Danh” tại Chùa Chánh Giác, đường Phan Văn Trị, Gia Định.
Bên Cư sĩ có Cụ Đoàn Trung Còn, pháp danh Hồng Tại thành lập Hội Phật Giáo Tịnh Độ Tông VN hồi năm 1955, tập họp giới xuất gia và tại gia, gia nhập Hội tu niệm Phật.
Năm 1959, Đức Tôn Sư HT thượng Thiện hạ Phước khai sơn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng giáo hóa pháp môn “Lễ Bái Niệm Phật”, liên hữu vừa lạy vừa niệm Phật; pháp môn “Phát nguyện niệm Phật”, đọc bài kệ pháp của Phật hay bài kệ Tịnh độ của Tổ sư rồi niệm Phật. Đến năm 1962 theo lời thỉnh cầu của quý Thầy cựu học Tăng Phật học Đường Lưỡng Xuyên, trong đó có Thầy Như Lý, đệ tử của Đức Pháp chủ thượng Khánh hạ Anh, Đức Tôn Sư khai khóa “Niệm Phật Bá Nhựt Trì Danh”, vừa đi kinh hành vừa niệm Phật đúng một trăm ngày, tạo phương tiện cho chư Tăng Ni Tịnh Độ Non Bồng có phương pháp tu niệm Phật Tịnh độ.
Cùng thời điểm nầy nơi vùng cao nguyên Lâm Đồng sơn dã có HT Thích Thiền Tâm, nhà dịch giả tài ba, soạn dịch kinh sách Tịnh độ, truyền bá pháp môn tu.
Nhìn chung ở thập niên ba mươi đến thập niên sáu mươi, cho đến hôm nay, Tịnh Độ Tông đến thời cực thịnh, đại đa số người tu đều quy y tu pháp môn niệm Phật, chín mươi phần trăm các Chùa đều hành trì theo pháp môn Tịnh Độ .
Non Bồng là thuật ngữ, nói chung là non Bồng nước nhược : dịch từ chữ Bồng Sơn, là núi Bồng Lai, nơi cõi thiêng liêng huyền bí, Bồng Sơn ở trên một hòn đảo gọi là đảo Bồng Lai.
Nước nhược : dịch từ chữ Nhược Thủy là nước yếu. Nước nầy không đỡ nổi một hạt cải. Nghĩa là bỏ hạt cãi trên Nhược Thủy thì hạt cải chìm xuống. Tương truyền, chúng quanh đảo Bồng Lai là Nhược Thủy.
Non Bồng nước nhược là chỉ cõi Tiên, cảnh Tiên (trích trong Từ Điễn Cao Đài của soạn giả Đức Nguyên).
Trong thơ văn Việt Nam : “Non Bồng là tên núi, là chổ Tiên ở, cũng gọi Bồng Lai”.
Ví dụ : “Biết đâu nước nhược, Non Bồng là đâu” (Nguyễn Du)
Những người theo đạo Tiên, những ý tưởng trong thơ văn Việt Nam thì dùng thuật ngữ Non Bồng ám chỉ cho vùng núi non dành cho người tu Tiên Đạo. Cũng đúng thôi, vì việc lánh xa thế tục, xa rời sự tranh đấu, lánh chốn phồn hoa, thích tiêu dao nơi am thanh cảnh vắng là bản chất của người tu Tiên. Cho nên trong Hán nôm, chữ Tiên, gồm có chữ : Nhơn và chữ Sơn cùng đứng chung…
Trên đây là nói về thơ văn và những ngươi tu Tiên đối với từ ngữ Non Bồng. Người Phật Giáo không phải không dùng, chỉ vì đó là thuật ngữ hay phong cảnh của Tiên Đạo !
Người Phật giáo không phải là không dùng từ ngữ Non Bồng; đối với Phật Giáo, Non Bồng là môi trường núi non, nơi vắng lặng thanh tịnh, nơi An Lan Nhã, Tòng Lâm của Phật Giáo. Nơi đây mới thật sự là nơi đào tạo người tu theo hạnh Phật, hạnh Sa môn, bản chất của người đệ tử Đức Phật xưa nay. Tuy nhiên, dù thanh vắng cũng chỉ là phương tiện tạm thời làm trú xứ cho người tu Phật. Cho nên người học Phật sử dụng cảnh trí Non Bồng tạo thành môi trường lành mạnh cho chư Tăng Ni an trú tu hành.
Non Bồng do Đức Tôn Sư sáng lập cũng là một thắng cảnh như là một từ ngữ đối với thắng cảnh núi Thiên Thai, Tổ đình Thiên Thai của Tổ Sư Huệ Đăng, người sáng lập giáo phái Thiên Thai tại Long Điền. Bà Rịa Vũng Tàu .
Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng là một môn phái được khai sơn tại núi Bồng Lai, thuộc vùng núi Dinh, xã Tân Hòa, huyện Tân Thành, Bà Rịa Vũng Tàu .
Ngày nay Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng có 150 chùa trên toàn quốc. Trong những ngày kỷ niệm húy kỵ Đức Tông Chủ Tôn Sư vào các ngày 27,28,29, 30/07 và mùng 01/08 âl, chư Tăng Ni, Phật Tử các chùa tề tựu đông đủ lên đến hằng trăn ngàn người tham dự.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.


14 . NGÀY THỨ MƯỜI BỐN:

Những bậc khai sơn
Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng

Bạch Sư! Đức Sư Tổ gọi là Mẫu Trầu? Ni Trưởng Thích Nữ Huệ Giác gọi là Đức Ông? Xin Sư giảng giải!
Là hậu duệ, chúng con xin được học hỏi?

- Không có Đức Sư Ông Mẫu Trầu, mà có danh hiệu Đức Tôn Sư Hòa Thượng pháp hiệu Thích Thiện Phước, pháp danh Nhựt Ý, thuộc dòng Lâm Tế thứ 41 (biệt hiệu Đức Mẫu Trầu Bồng Lai). Chốn Tổ của Hòa Thượng : - một là Đức Sư Ông thượng Bửu hạ Đức, Am Bửu Quang, Núi Dài, Châu Đốc - hai là đệ tử cầu pháp với Đại lão Hòa Thượng thượng Trí hạ Châu húy Hồng An, tại Long Sơn Cổ Tự vào năm 1955.
- Từ ngữ Mẫu Trầu không phải là danh xưng, mà là biệt hiệu của Đức Tôn Sư, do các Cư sĩ trong nội bộ thường xuyên tôn kính gọi Đức Tôn Sư trong quá trình xử sĩ (ẩn tu) trong điện Phổ Đà – một phần là do hoạt động Cách Mạng – một phần mai danh ân tích, không muốn ngoại nhân biết mình là ai, không xuất thân hành đạo… chấp nhận cho môn đệ hộ đạo gọi biệt hiệu ! Nên chẳng có gì là trái ý đạo !

Tịnh độ Non Bồng gọi nữ nhân là Đức Ông ?
Các Bạn không nên thắc mắc, vì có ai là nữ nhân mà trong Tịnh Độ Non Bồng gọi là Đức Ông đâu ? – 50 năm qua từ khi xuất gia làm Chú Tiểu đến nay là Hòa Thượng, chúng tôi chưa nghe gọi người nữ nào là Đức Ông ?
Có chăng, là Sư Bà Huệ Giác là Tổ Thầy của các thế hệ Tăng Ni sinh “ấu niên xuất gia”, Sư Bà có duyên được làm Thầy của đông đảo Tăng Ni sinh “ấu niên xuất gia” (có từ 600 đến 800 Tăng Ni sinh, tính từ năm 1958 đến nay). Từ số lượng tu sĩ nầy, khi họ tu nên đạo nghiệp, lớn lên có đủ tài năng đi giáo hóa chúng sanh, họ vẫn gọi Sư Bà là Thầy, có khi họ xem Sư Bà như là người Cha, nên gọi từ “Ông Già”.
Do vậy, không có từ “đức ông” nào cả !
Vả lại bên Ni Giới, thường tôn kính những bậc đạo cao đức cả, gần giống như bên Tăng. Quý Sư Bà cũng gọi với nhau bằng “Ông”, nên các môn đệ cũng từ đó mà gọi quý Sư Bà bằng “Ông” .
Từ “Ông” cũng xuất phát từ đây, không có gì phải nghĩ suy…
Kính chúc an lạc ! Tinh tiến niệm Phật…

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

CHƯƠNG THỨ BẢY

15 . NGÀY THỨ MƯỜI LĂM:
Tông chỉ pháp môn niệm Phật
(Phát nguyện niệm Phật)

Bạch Sư! Chúng con hữu duyên lành được quy ngưỡng pháp môn tu, không ngờ rằng, khi tìm đến con đường tu học Phật lại tìm gặp được thầy lành bạn sáng, gặp được pháp môn tu phù hợp vời bản năng, phù hợp với đời sống thực tiễn trong gia đình, xã hội, thậm chí đến các cơ quan ban ngành, đòan thể nếu phát tâm thọ học, đều có thể thực hiện được mà không làm trở ngại cho công việc làm. Trong quá trình nghe Sư thuyết pháp tại Long An chúng con có nghe giảng đến những phát nguyện lành của Đức tôn sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước, chính những hạnh lành ấy trở thành tôn chỉ của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng dành cho Tăng Ni, Phật tử thú hướng tu hành giải thóat, xin Sư từ bi trùng tuyên lại cho chúng con được học?

Vâng! Sư sẽ trùng tuyên lại lời của Đức Tôn Sư, tông chỉ môn phong có năm bài phát nguyện, sinh thời Đức tôn sư dùng đây làm kim chỉ nam tu hành mà thành tựu. Nội dung Lời phát nguyện đơn giản, lời văn ngắn gọn, mộc mạc, khác với thế gian, xa hẳn với các môn phong khác… nhưng chính những lời phát nguyện đó giúp cho hằng trăm, hằng ngàn Tăng Ni trải hằng bao thế hệ tụng đọc tu hành hiệu quả, bất thối chuyển, nên đạo, trở thành những vị giáo phẩm Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Ni Trưởng, Ni Sư, Sư Cô cầm nắm viềng mối tông phong trong khắp các trú xứ niệm Phật trong cả nước và nước ngòai…

BÀI SỐ 1
LỜI PHÁT NGUYỆN ĐI TU

Nam Mô Nhứt Tâm Đảnh Lễ A Di Đà Phật.
Nam Mô Nhứt Tâm Đảnh Lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Nhứt Tâm Đảnh Lễ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Ngày nay con là Phật tử tên họ . . . . Pháp danh. . . . . . . . .tuổi....
Ngày nay con đại phát nguyện tu hành theo đạo Phật đời đời kiếp kiếp con không nhàm chán, không thối chuyển.
Ngày nay con biết tu, con nguyện cho bá tánh muôn dân cũng được biết tu như con vậy.
Ngày nay con bỏ dữ về lành, bỏ ác về thiện, con cũng nguyện cho muôn loài vạn vật cũng đồng tu Đạo Phật giống như con vậy .
Ngày nay con quy y Tam Bảo, con xuất gia tu Phật con nguyện vô lượng chúng sanh trong cõi đời cũng đồng đặng như con vậy.
Ngày nay con theo chơn Tiên gốc Phật, con cầu vãng sanh Tịnh Độ, con cũng nguyện cho tất cả chúng sanh trong cõi đời hoặc hữu tình hoặc vô tình cũng đồng đặng như con vậy.
Ngày nay con nguyện theo chơn Phật cầu đạo giải thoát, tu cho thành Thánh, thành Tiên, thành Phật, con đồng nguyện cho tứ sanh, lục đạo, tất cả chúng sanh cũng đồng được giác ngộ như con vậy.
Ngày nay con nguyện xuất gia đi tu, xa lánh ba đường dữ, tu theo đạo chánh đẳng, chánh giác của Như Lai, con cũng đồng nguyện khắp trong tứ Thánh lục phàm cũng đồng đặng như con vậy.
Ngày nay con là Phật tử ……… tên họ ……… Pháp danh………
Thân tâm con cầu vãng sanh Tịnh Độ, con thành tâm đại nguyện nhìn nhận đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát là mẹ chơn thật của con muôn đời vạn kiếp bất thối chuyển. Ngày nay thân tâm con phát nguyện Tây Phương Phật, đức Giáo chủ A Di Đà Phật là cha của con trải qua vô lượng kiếp bất thối chuyển, lời con nguyện chơn thật như vậy, như vậy.
Con nguyện Cha Mẹ Tổ Thầy vi chứng minh cho các con được đắc kỳ hạnh nguyện.
Thân tâm con nguyện xuất gia đi tu đạo Phật được kết quả lành thành đạo, được làm vui cho trăm họ, được sưởi ấm cho bá gia, được an ủi cho muôn loài, lợi lạc cho nhơn thiên đời đời kiếp kiếp bất thối chuyển.
Con nguyện như vậy, con làm như vậy đời đời kiếp kiếp bất thối chuyển.
Nam Mô Nhứt Tâm Đảnh Lễ A Di Đà Phật.
Nam Mô Nhứt Tâm Đảnh Lễ Tam Bảo cảm ứng chứng minh.
Nam Mô Nhứt Tâm Đảnh Lễ Tám Bộ Chư Thiên chứng minh.
BÀI SỐ 2

LỜI PHÁT NGUYỆN GIỮ ĐẠO
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nhứt nguyện ngày nay con đại phát nguyện trước Tam Bảo mười phương chư Phật, bá vạn chư Thiên cảm ứng chứng minh.
Con nguyện trường chay vô lượng ức kiếp bất thối chuyển.
Các con nguyện trì chú Đại Bi tụng kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh bất thối chuyển.
Các con nguyện niệm hồng danh chư Phật, niệm danh hiệu A Di Đà Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ vô lượng ức kiếp bất thối chuyển.
Các con nguyện thủ trì tam đề ngũ quán vô lượng ức kiếp bất thối chuyển.
Nay con phát nguyện cả xác lẩn hồn trước Tam Bảo mười phương chư Phật bá vạn chư Thiên.
Kể từ nay nhẫn đến bá thiên vạn kiếp vô lượng ức kiếp vị lai bất thối chuyển.
Con chẳng trái bổn nguyện ! Con chẳng trái bổn nguyện.
Các con nguyện thủ trì thần chú Đại Bi vô lượng ức kiếp bất thối chuyển.
Con chẳng trái bổn nguyện trước Tam Bảo Phật Pháp Tăng chư Thiên Hộ Pháp cảm ứng chứng minh.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát (3 lần)
BÀI SỐ 3

LỜI PHÁT NGUYỆN TU THÂN
Các con nguyện trước Tam Bảo mười phương chư Phật bá vạn chư Thiên cảm ứng chứng minh.
Mắt các con nguyện đời đời kiếp kiếp nhìn đức Phật mãi mãi không nhàm chán không thối chuyển.
Tai các con nguyện đời đời kiếp kiếp nghe tiếng niệm Phật và nghe pháp lành mãi mãi không nhàm chán không thối chuyển.
Mũi các con nguyện được ngửi mùi trầm hương thơm vi diệu của chư Phật mãi mãi đời đời kiếp kiếp không nhàm chán không thối chuyển.
Miệng các con nguyện niệm hồng danh chư Phật và nói pháp lành mãi mãi của Phật đời đời không nhàm chán không thối chuyển.
Tâm ý các con nguyện tưởng nhớ đức Phật mãi mãi và trọn tin đức Phật đời đời kiếp kiếp không nhàm chán không thối chuyển.
Thân tâm các con nguyện cúng dường ngôi Tam Bảo, làm tớ cho Tam Bảo, làm con cho Tam Bảo phụng sự cho ngôi Tam Bảo mãi mãi đời đời kiếp kiếp không nhàm chán không thối chuyển.
Từ nay nhẫn đến nghìn thu Phật chẳng trái lời thệ nguyện.
Kể từ nay nhẫn đến bá thiên vạn ức vô lượng nghìn thu Phật chẳng trái Bổn thệ nguyện bất thối chuyển.
Khi nào con có quên bổn nguyện xin mười phương chư Phật, Long Thiên Hộ Pháp đồng nhắc nhở và hộ niệm cho các con được làm tròn bổn nguyện.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát (3 lần)
BÀI SỐ 4

LỜI PHÁT NGUYỆN HỘ ĐẠO
Nam Mô A Di Đà Phật.
Ngày nay thân tâm các con là Phật tử ……… đồng phát nguyện thệ.
Kể từ nay đến vô lượng đời vị lai các con an trụ trong cội lành của Như Lai bất thối chuyển.
Các con an trụ trong pháp lành của Như Lai bất thối chuyển.
Các con an trụ trong hành thiện của thập phương Bồ Tát bất thối chuyển.
Trải qua vô lượng kiếp các con đồng phát nguyện thệ như vậy.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Ngày nay thân tâm các con là Phật tử ………… đồng phát nguyện thệ.
Từ nay đến vô lượng đời vị lai không xa lìa Thiện tri thức. Các con đồng phát nguyện thệ như vậy bất thối chuyển.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Ngày nay thân tâm các con là Phật tử ………… đồng phát nguyện thệ.
Trải qua vô lượng ức kiếp đời vị lai, hiện tại kiếp, quá khứ kiếp.
Các con lễ bái Như Lai, cúng dường Như Lai, xưng tán Như Lai, hộ niệm Như Lai, tôn kính Như Lai.
Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề tâm vô lượng ức kiếp bất thối chuyển.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô Tam Bảo Phật Pháp Tăng Chư Thiên Hộ Pháp cảm ứng chứng minh. (3 lần)
Nam Mô A Di Đà Phật.
BÀI SỐ 5

LỜI PHÁT NGUYỆN THỌ TRÌ Y BÁT
Con là Phật tử tên . . . . .tuổi . . .pháp danh. . . .
Ngày nay con lập hạnh nguyện xuất gia thọ trì Y Bát của Phật .
Con nguyện trước Tam Bảo Phật Pháp Tăng, mười phương chư Phật, tám bộ chư Thiên cảm ứng chứng minh.
Ngày nay thân tâm con nguyện xuất gia thọ giới của Phật.
Con nguyện thọ trì y vô thượng bát chánh đạo của Như Lai vô lượng ức kiếp bất thối chuyển.
Ngày nay thân tâm con tên . . . . .pháp danh. . . . . .
Con nguyện chấp hành giới luật của Phật đời đời kiếp kiếp bất thối chuyển.
Ngày nay con nguyện làm con của chư Phật, Bồ Tát
Con nguyện làm trò của chư Phật, Bồ Tát .
Con nguyện làm Sứ Giả của Như Lai.
Con nguyện làm Trưởng tử của chư Phật, Bồ Tát.
Con nguyện làm Thích tử của Như Lai.
Con nguyện hộ trì Phật Pháp Tăng Tam Bảo.
Con nguyện giữ vừa hương bát nước của chư Phật.
Con nguyện lễ bái cúng dường Phật Pháp Tăng. Ngày nay thân tâm con nguyện chung thủy, quy y Đức Bồ Tát Quán Thế Âm Phật Mẹ, chung Thủy trải vô lượng ức kiếp bất thối chuyển.
Ngày nay con phát nguyện làm con của Đức Đại Từ, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Con xin phát nguyện mười hai hạnh nguyện của Phật Mẹ, con tín thọ phụng hành một hạnh nguyện được viên mãn.
Thân tâm con thiên bá ức bái, đầu đội vai mang, đấng Đại Từ, Đại Bi, Phật Mẹ chứng lòng thành khẩn phát nguyện.
Ngày nay thân tâm con thiên bá ức bái đảnh lễ Tam Bao Phật Pháp Tăng, thập phương Bồ Tát chư Phật cảm ứng chứng minh.
Hồn xác con phát nguyện phụng thỉnh và cầu xin tám bộ chư Thiên hộ trì cho con được toại nguyện
Nhứt tâm đảnh lễ tám bộ chư thiên bá bái .
Nhứt tâm đảnh lể Phật Mẹ Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm bá bái.
Nhứt tâm đảnh lể Tam Bảo thập phương chư Phật bá bái.
Nam Mô A Di Đà Phật .
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ngày nay con nguyện tấn đạo nghiêm thân, thủ trì Y Bát của Như Lai vô lượng ức kiếp bất thối chuyển.
Nam Mô A Di Đà Phật

Những bài phát nguyện trên xuất phát từ kim ngôn của Đức tôn sư trong những năm còn hành đạo tại núi Bồng Lai, trung tâm thành lập Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng. Do bài phát nguyện tụng đọc ở non núi, nên lời văn thô kệch, không sắp sẳn không sọan đi sọan lại như các nhà văn, chỉ có ý tứ là dồi dào, cho những người muốn học đạo giải thóat, không còn phân vân, khi người tụng đọc không nghi ngờ, mà còn thêm phát tâm tinh tấn ký gởi trọn niềm tin nơi lời nguyện và cảm thấy được gần gủi Đức tôn sư. Xin mời gọi các bạn thử tụng đọc và nghiên cứu.
Trong sám văn Phát bồ đề tâm của Đại sư Thiệt Hiền, hiệu Tư Tề, đệ Thập tổ của Tịnh Độ Tông, ngài có trứ thuật lại lời kinh dạy:

”Yếu môn nhập đạo
Phát tâm làm trước
Yếu vụ tu hành,
Lập nguyện làm đầu
(Đường về Cực Lạc, Liên tông chư tổ, trang 185)

Đây là con đường duy nhất trong thời kỳ chánh pháp đã qua đi, các bạn tinh tấn niệm Phật, lễ Phật và phát nguyện niệm Phật tinh chuyên.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

PHẦN V
Giáo lý căn bản Tịnh độ tông
&&&

CHƯƠNG THỨ TÁM

16 . NGÀY THỨ MƯỜI SÁU:
Bốn cõi Tịnh Độ

Bạch Sư! Chúng con có nghe Sư giảng về bốn cõi Tịnh Độ, khi tu chứng đạt đến hiệu quả, về với các cõi Tịnh Độ, nhưng là cõi Tịnh Độ nào? Xin Sư từ bi giảng giải?

Đã nghe hỏi thì biết là quý vị còn tu và cần phải học Phật pháp thật nhiều hơn nữa, lời hỏi sẽ giúp ích cho đại chúng liên hữu đồng tu. Sư sẽ vì quý vị và đại chúng mà nói…
Năm 1971 khi còn tham dự học khóa giáo lý Tịnh Độ Căn Bản, môn Tịnh Độ Thập Nghi Luận tại Quan Âm Tu Viện, Sư được nghe Thầy dạy như sau:
Tất cả cõi Phật trong khắp mười phương đều không ngòai tâm mà có. Thầy dạy niệm Phật phát nguyện vãng sanh Tây phương Cực lạc, khi niệm trông về hướng tây mà là đề mục tu tiến… từ đó có người cứ mãi mê thú hướng về hướng tây mà niệm rồi nghĩ ngợi là Tịnh Độ ở hướng tây. Cũng phải thôi, vì kinh dạy như vậy và đối với người còn trong vòng tu tiến chưa đắc đạo. Song người tu niệm Phật đạt đến vô biệt niệm, thì đâu có cõi Phật nào ngòai tâm ta.Cho nên lúc bấy giờ Tịnh Độ là cõi duy tâm, ở trong chân tâm của ta, như biển cả nổi lên vô lượng bóng bọt, nhưng không có bóng bọt nào ở ngòai biển cả. Ví như những hạt bụi, không có hạt bụi nào chẳng phải là đất; cũng như không có cõi Phật nào chẳng phải là tâm. Nên chư Đại sư Tịnh Độ môn từng dạy: "Chỉ một tâm nầy có đủ bốn cõi là: Phàm thánh đồng cư Tịnh Độ, Phương tiện hữu dư Tịnh Độ, Thật báo trang nghiêm Tịnh Độ, Thường Tịch Quang Tịnh Độ…"

Cõi Tịnh Độ thứ nhất

1/. Cõi Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh độ: Cõi phàm thánh Đồng cư Tịnh độ gồm có hai độ là Đồng cư Tịnh độ và Đồng cư uế độ. Đồng cư uế độ là như cõi Ta bà trong quốc độ nầy có phàm có thánh ở chung lẫn, mà phàm và thánh đều có hai hạng. Hai hạng của phàm là ác chúng sanh, tức bốn thú (a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) và thiện chúng sanh, tức trời người. Hai hạng của thánh là thật thánh và quyền thánh. Thật thánh là các thánh nhân thuộc bốn đạo quả: Bích chi Phật, bậc thất địa trong Thông giáo, thập trụ trong Biệt giáo, thập tín hậu tâm trong Viên giáo. Những vị nầy phần “thông hoặc” tuy dứt hết song sắc thân quả báo hãy còn, nên đều gọi là “thật” . Quyền thánh là các vị Bồ tát trụ ở những cõi phương tiện, thật báo, tịch quang cùng bậc Diệu Giác (Phật) vì làm lợi lạc cho kẻ hữu duyên nên ứng sanh vào cõi Đồng cư, bởi tùy cơ thị hiện nên gọi là “Quyền”. Những vị trên đây cùng với phàm phu đồng ở, nên gọi là “Phàm Thánh Đồng Cư”; và cảnh cư trú, về phần khí thế giới có hầm hố, gai gốc, bùn đất, cùng các tướng nhơ nhớp, về phần hữu tình giới có bốn ác thú, nên gọi là “uế độ”. Đồng cư Tịnh Độ là như cõi Cực Lạc, tuy y báo chánh báo nơi đây trang nghiêm mầu nhiệm, không có bốn ác thú, song cũng gọi là “Phàm thánh đồng cư”, vì chúng sanh về cõi nầy không phải đều là bậc đắc đạo. Như trong kinh nói:”Hạng người phạm tội nặng, khi lâm chung chí tâm sám hối và niệm Phật, đều được vãng sanh”. Do đó nên biết nơi cõi nầy chúng sanh còn hoặc nhiễm cũng có thể được ở. Thế giới Cực lạc cũng có hai hạng thánh cư và bởi y báo chánh báo sạch sẽ trang nghiêm, nên gọi là Tịnh Độ
Để nói rộng thêm, tuy gọi Tịnh Độ nhưng thật ra trong ấy có nhiều hạng hơn kém không đồng. Như thế giới Diệu Hỉ tuy là Tịnh Độ, song còn có nam nữ và núi Tu Di. Và Tịnh Độ đã như thế, uế độ cũng như vậy.

Cõi Tịnh Độ thứ hai

2/. Cõi Phương Tiện Hữu Dư Tịnh độ: Là chổ ở của bậc nhị thừa và ba hạng Bồ tát đã chứng phương tiện đạo. Những vị nầy do tu hai môn quán, dứt phần thông hoặc, phá hết trần sa, bỏ thân phân đọan thọ thân pháp lành, tự tại ở ngòai ba cõi; nhưng vì họ chưa đọan được biệt hoặc vô minh nên còn có sự biến dịch sanh tử. Sở dĩ gọi “phương tiện” vì đó là cảnh giới của hành nhơn tu chứng phương tiện đạo; gọi “hữu dư”, là bởi họ chưa đọan được vô minh. Cho nên trong Thích Luận nói: "Ngòai tam giới có cõi Tịnh độ, đây là chổ của hàng Thinh văn, Bích chi Phật cư trú, thọ pháp tánh thân, không còn sự phân đọan sinh tử”

Cõi Tịnh Độ thứ ba

3/. Cõi Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh độ: là cõi Thật báo vô chướng ngại là nơi không có hàng nhị thừa, chỉ thuần là bậc pháp thân Bồ tát ở. Những vị nầy phá từng phần vô minh, chứng từng phần pháp tánh, được quả báo chân thật. Song vì họ chưa đọan diệt hết vô minh, nên còn nhận vô lậu nghiệp, thọ báo thân pháp tánh và cảnh giới nầy cũng gọi là quả báo độ. Kinh Nhân vương nói:”ba hiền mười thánh trụ quả báo”, là chỉ cho sự việc trên đây. Sở dĩ gọi “thật báo”, vì các đại sĩ ấy do quán thật tướng, phát được chân vô lậu thọ hưởng quả báo chân thật; gọi là “vô chướng ngại” là bởi chư Bồ tát đây, tu chân không định, sắc cùng tâm không ngăn ngại lẫn nhau. Trong kinh hoa Nghiêm thuyết minh thế giới Nhân đà la võng, chính là cảnh nầy.

Cõi Tịnh Độ thứ tư

4/. Cõi Thường Tịch Quang Tịnh độ: cõi Thường tịch quang là chân lý pháp giới như như, sáng suốt cùng cực của bậc Diệu Giác. Đây là Phật tánh chân như, tức độ là thân tức thân là độ, thân và độ không hai, là trụ xứ của Đức Tỳ lô giá na, cũng gọi là Pháp tánh độ.”Thường” chính là đức pháp thân, “Tịch” tức là đức giải thóat, “Quang” là đức Bát nhã như chữ “Y” có ba điểm, không thể cách lìa, một tức là ba, ba nguyên vẫn một. Đây cũng gọi là Bí mật tạng, là cảnh giới du hóa của Như Lai, cứu cánh chân thường, thanh tịnh cùng cực.
Hai cõi Tịnh độ trước là chổ của Ứng thân Phật. Cõi thứ ba cũng thuộc về Ưng cũng thuộc về Báo, mà chính thức là chổ ở của Báo thân Phật. Cõi thứ tư không phải Ứng và Báo mà kiêm cả Ứng, Báo, là chổ ở của Pháp thân Phật.
Qua bốn cõi Tịnh độ trên, quý vị đã thấy thật tận tường, cõi Tịnh độ nào cũng là duy tâm, thuộc tâm, nên người tu niệm Phật đạt đến cứu cánh thì bốn cõi cũng là một cõi Tịnh độ duy nhất, về với cõi Tịnh độ ấy là “cõi tâm”, duy tâm Tịnh độ là thực thể của thế giới Tịnh độ mà Đức Phật Thích Ca đã từng dạy trong các kinh Đại A Di Đà, Tiểu bổn A Di Đà.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

CHƯƠNG THỨ CHÍN

17 . NGÀY THỨ MƯỜI BẢY:
Nam hành đạo (khó tu) và Dị hành đạo (dễ tu)

Bạch Sư! Những người nghiệp ác sâu nặng, phiền não dẫy đầy, trường hợp có công phu tu tập, nhưng chướng duyên vẫn còn rất nặng nề. Người ấy sánh với cõi Tịnh Độ còn xa diệu vợi. Thế nên phải tu hành như thế nào để được vãng sanh Tây phương Cực lạc, chúng con thấy khó quá, mong Sư chỉ dẫn?

Chúng sanh thời mạt pháp, nói về công đức tu hành chẳng là bao, nên việc cầu chứng vãng sanh rất khó; nhưng do nguyện lực của Phật A Di Đà luôn trợ duyên cho chúng sanh, những ai phát tâm tín niệm danh hiệu Ngài thì có cơ hội về với thế giới của Ngài.
Sư sẽ cố gắng đem những tinh hoa của giáo lý Tịnh Độ đã học hồi năm 1970-1971 để dẫn giải giúp quý vị thông suốt về các pháp dễ tu và khó tu.
Trong quá trình tu tập của chư liên hữu tu Tịnh độ, đại để có hai duyên “khó tu” và “dễ tu” (tức là nan hành đạo và dị hành đạo). Đời nay, nếu người tu tự tu tự thân chứng, chỉ có “tự lực” thì người ấy gặp nhiều trở ngại, rất “khó tu”; ngược lại người tu có cầu “tha lực” trợ duyên thì người ấy đang bước trên bước đường “dễ tu” dễ chứng đắc.
Về “tự lực” thì hàng cụ phược phàm phu ở thế giới nầy tuy có đôi chút tu hành, thật ra chưa đủ lực để vãng sanh về Tịnh độ và xứng đáng được ở Tịnh độ. Kinh Anh Lạc nói:”từ địa vị cụ phược phàm phu chưa biết Tam Bảo và nhân quả thiện ác, trước tiên mới phát tâm bồ đề phải lấy TÍN làm gốc, đến khi vào đạo Phật lại lấy GIỚI làm nền tảng. Hạng phàm phu nầy khi mới thọ giới Bồ Tát, nếu mỗi đời cứ tiếp tục giữ giới như thế không cho khuyết phạm, trải qua ba kiếp mới đến địa vị sơ phát tâm trụ. Lại cứ như thế mà tu Thập tín, Thập ba la mật, cùng vô lượng hạnh nguyện, nối nhau không gián đọan, mãn một vạn kiếp, mới đến ngôi đệ lục Chánh tâm trụ. Khi tiến lên đệ thất Bất thối trụ tức là đã vào Chủng tánh vị, nhưng địa vị nầy cũng chưa được sanh về Tịnh độ. Đây là nói về tự lực.
Về tha lực, nếu ai tin nơi nguyện lực, nếu người nào tin nơi nguyện lực đại bi nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật danh hiệu đức A Di Đà, rồi phát lòng bồ đề tu môn niệm Phật tam muội, chán thân hữu lậu trong ba cõi, thật hành bố thí trì giới cùng các phước nghiệp, mỗi hạnh đều hồi hướng nguyện vãng sanh Tây phương thì cơ cảm hợp nhau, nương nhờ Phật lực liền được vãng sanh.
Sách Thập trụ Tỳ Bà Sa luận nói: "có hai lối tu nan hành đạo và dị hành đạo. Nan hành đạo là chúng sanh ở cõi ngũ trược trải qua vô lượng đời chư Phật, tu hành bất thối chuyển, thật rất khó được. Sự khó khăn nhiều như cát bụi, nói không thể hết:
1). Ngọai đạo dẫy đầy làm lọan pháp bồ Tát
2). Bị người ác, kẻ vô lại phá họai thắng đức của mình
3). Dễ bị phước báo làm điên đảo, có thể khiến họai mất phạm hạnh.
4). Dễ bị lạc vào đường tu tự lợi của Thinh văn
5). Bởi duy có tự lực, không có tha lực hộ trì, nên sự tu hành rất khó khăn.
“Nan hành đạo” khó tu ví như người què yếu đi bộ một mình tuy rất khó nhọc, song một ngày qua chỉ đi được một vài dặm.
“Dị hành đạo” dễ tu ví như chúng sanh ở cõi nầy nếu tin lời Phật, tin môn niệm Phật phát nguyện tu cầu về Tịnh Độ, tất sẽ được nguyện lực của Phật nhiếp trì, quyết định được vãng sanh. Ví như người nương nhờ sức thuyền xuôi theo dòng nước, có gió xuôi chèo, nên tuy đường xa ngàn dặm nhưng cũng đến nơi một cách dễ dàng, thành tựu hạng nguyện tu hành.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo
18 . NGÀY THỨ MƯỜI TÁM:

Lễ bái môn (pháp môn tu lễ bái niệm Phật)

Bạch Sư! Trong các pháp môn tu, chúng con nghe quý sư giảng, môn lễ bái là pháp thật dễ tu dành cho chư Tăng Ni và tín đồ Phật tử. Lễ bái cũng là một công hạnh tu trong các hạnh tu của pháp môn niệm Phật Tịnh độ tông, như Lễ Phật, tụng kinh Phật, niệm Phật. Chúng con thấy lễ bái là hạnh lành cao cả và trang nghiêm, đồng thời cũng là một trong tông chỉ của Liên tông Tịnh độ Non bồng… xin Sư từ bi hoan hỷ chỉ dạy?

Lễ bái môn là pháp môn tu phổ cập trong quảng đại quần chúng, tín đồ Phật tử, từ xưa đã trở thành nền nếp cho con người. Vái là “xá” , vái ba vái tức là xá ba xá, lễ là lạy, xá ba xá rồi lạy ba lạy là hạnh lành của người tín đồ Phật tử trong chốn thiền lâm, am thanh cảnh vắng, nơi a luyện nhã, nơi đã không còn tâm trần ý tục nữa, mà nơi đó chính là giải thóat mọi căn duyên trần tục, tháo bỏ mọi xích xiềng, tiêu dao nơi Cực lạc. Lạy Phật, đức Phật trước mặt, nhưng khi đã lạy thì lúc bấy giờ chính con là Phật, Phật ở trong con, chính con và Phật là “một”. Kinh dạy: "…Năng lễ sở lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo giao nan tư nghì…”
Tánh lạy thể hiện nơi tướng lạy, tướng lạy nhưng tấm lòng dứt nghĩ suy, nên chỉ còn lại sự rỗng không, không tịch, không còn ta và Phật, ta và Phật không hai. Lúc bấy giờ chỉ còn là một Đức Phật giải thóat tòan diện.
Luận Thập trụ Tỳ bà sa, ngài Thế Thân dạy về ngũ niệm môn, trong đó có môn tu “Lễ Bái Môn” đứng đầu trong các hạnh lành tu Tịnh Độ.
Xin giới thiệu về bảy phép lạy trong “Nhị khóa hiệp giải” bản dịch của Đức Pháp Chủ thượng Khánh hạ Anh, mà tôi đã học tại Phật Học Đường Tây Phương Bồng Đão, núi Bồng Lai vào năm 1962 và được mời thuyết giảng vào năm tại Lớp Giáo Lý Căn Bản tại Tổ Đình Long Thiền – Bửu Hòa, Biên Hòa (chương trình Trung đẳng Phật học, niên khóa 1991-1995). Bản dịch được thực hiện vào năm 1958-Pl 2502, theo nguyên bản của Pháp sư Quán Nguyệt chú giải.
Kinh Đại Phương Quảng nói:”ngài Trí Đăng tôn giả hỏi Đức Văn Thù Sư Lợi rằng:” Thế nào là lạy Phật”.
Đức Văn Thù đáp:”nếu thấy pháp (sự vật) sạch thì gọi là thấy Phật sạch, hoặc thân và tâm chẳng thấp chẳng cao, chỉ ở một mực ngay thẳng, lòng vẫn vắng lặng, không hề dao động, làm cái hạnh vắng lặng như thế gọi là lạy Phật.

Từ năm 1960 đến 1964, chư Tăng Ni Non Bồng tại núi Bồng Lai được Đức Tôn Sư dạy lạy Phật vào buổi sáng và buổi chiều. Buổi sáng từ 6 giờ đến 7 giờ, buổi chiều cũng từ 18 giờ đến 19 giờ, mỗi lần lạy như vậy là 108 lạy, nội dung đảnh lễ chư Phật, mười phương chư Phật, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh Tăng, chư lịch đại tổ sư, chư hiền A la hán, chư thánh, chư tiên, chư thánh mẫu… đây là việc thực tập tu Tịnh độ của các liên hữu Non Bồng, trong đó có lạy chư thánh, chư tiên, chư thánh mẫu là do người tu núi phải đảnh lễ chư vị mà thôi, không thực hiện thì không đúng; cho nên nói lạy 108 lạy, chứ thật ra chư Tăng Ni, Phật tử lạy còn hơn 108 lạy Phật nữa… Đặc biệt là các vị lạy đứng, đứng lạy, vị nào cao tuổi thì quỳ lạy, vị nào còn trẻ mà quỳ lạy thì sẽ bị phạt quỳ hương…

Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy có ba cách lạy Phật:
1). Lạy nên lỗi, là trong lúc lạy Phật, cái thân dung nghi chẳng trang chính, vì đi theo tánh khinh mạn, tỷ như cái chày đạp lên xuống, nên Phật bảo là có lỗi.
2). Lạy tương tợ: Trong khi lạy Phật, thân thể dung nghi tự hồ chân chính, mà tâm niệm nghĩ tưởng xằng bậy nơi đâu, hoặc chỉ lo cầu nguyên buôn mai bán đắc, ăn nên làm ra vậy thôi, lạy Phật ở trên bàn, Phật ciment, nhưng khi gặp quý Sư không biết xá lạy tôn kính, thêm vào đó tuy khởi tâm đi chùa, nhưng chẳng biết gì là cầu học Phật pháp. Vào chùa thì đi xe bốn bánh ỷ lại vào chức quyền,giàu có, hách dịch… không tôn kính quý Sư, chư Tôn Hòa Thượng, Thượng tọa, Trung tọa, Hạ tọa… Những người ấy có đi chùa cả ngàn năm cũng vô ích mà thôi. Những người nầy mê tín dựa vào một vài vị “thầy không ra thầy, trò không ra trò” xin bùa, xin phép làm ăn, xin phép “mị dân” để mở công ty lại bảo là đi chùa. Họ không biết việc làm ăn thành bại là do chính mình, tự trí tuệ của mình chính là Đức Phật “ở trong lòng”, Phật trong lòng gia hộ cho ăn nên làm ra… Có nhiều người vào chùa gặp quý Sư, gặp Hòa Thượng, lấy mắt ngó nghinh, ngó ngang… vậy mà cũng bảo là đi chùa đến nay mười năm rồi?
3). Lạy tùy thuận chân thật: lúc đương lạy Phật thân nghĩ họp nhau với ý nghĩ chân chính, người ấy thuận theo tâm thành thật để lạy.
Người Phật tử đó, khi xá lạy biết kính quý Sư, quý Hòa Thượng, quý Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư, đến chùa học Phật pháp để tu, học giáo lý Phật học để biết, không cầu linh mà thật linh nghiệm, việc làm ăn kết quả, thành đạt.
Sự thành đạt là do trí năng của con người, trí năng đó chính là Phật tánh, Đức Phật trong lòng (trí tuệ) gia hộ. Phật dạy: "tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, Phật tánh chính là trí tuệ để định đọat cho chính mình trong lúc tiếp cận với đời, với công ăn việc làm. Chớ không do một Thầy nào đó cho phép làm ăn, ban bố ân điễn làm ăn… hủ tục nầy mê tín lạc hậu lắm rồi, đã không còn ở trong nhà Phật, khi người Phật tử biết nó là “trò mê tín lừa bịp”; khi người Phật tử tín tâm biết phát tâm thọ quy giới, học Phật pháp, biết tìm đường chính kiến.
Bộ Hoa Nghiêm Tùy Sớ Diễn Nghĩa dạy:”lễ là kính lạy ngôi Tam Bảo Phật Pháp Tăng, ắt phải đem năm vóc đến sát đất, làm vậy chi vậy? Là lý do bỏ dẹp tánh ngạo mạn của thế gian, mà nói lên lòng thành kính:
1/. Đầu gối hữu,
2/. Đầu gối tả,
3/. Cùi chỏ tay hữu,
4/. Cùi chỏ tay tả,
5/. Cán trán, đầu chấm sát đất. Nghĩa là trong những lúc mỗi vóc nào vừa sát đất, đều có mỗi câu nguyện cả, như:
Một, khi lạy đầu gối hữu kê sát đất, nguyện cho chúng sanh, đồng đặng đạo chánh giác.
Hai, khi lạy đầu gối tả kê sát đất, nguyện cho chúng sanh, lòng không tà kiến với pháp ngọai đạo, mà đồng được đứng vững vàng trong đạo chánh giác.
Ba tay hữu lạy kê sát đất, nghỉ tưởng đến Đức Thế Tôn đang ngồi tọa bửu tòa Kim Cang, dùng từ lực chuyển cho quả đất rúng động, hiện nhiều điềm lành cho đại chúng thấy, nguyện cho chúng sanh đồng đắc quả bồ đề, thóat khỏi khổ nạn, tai qua nạn khỏi tật bệnh tiêu trừ.
Bốn, tay tả khi lạy kê sát đất nguyện cho chúng sanh xa lìa những phái ngọai đạo, tà kiến khó điều phục (xa lìa chớ không nên điều phục họ,làm cho họ theo đạo của mình đang theo, điều nầy Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước từng dạy, nếu làm vi phạm luật thế gian), không làm những việc mê tín, tiên tri, bốc phệ, bói mu rùa, dùng người có tật phế khác lạ, gọi là phi thường, sai khiến họ làm điều tà mị, rồi tôn xưng tôn vinh người ấy là Phật thánh, mị thế đời nhẹ dạ cả tin, phá chánh pháp, gặp trường hợp nầy Sa môn đệ tử Phật dùng pháp tứ nhiếp, tùy duyên tìm cách gần gũi họ tuyên thuyết giáo lý Phật, khuyên niệm Phật, niệm Quán Âm Bồ Tát để cảm hóa, khiến cho vào đạo chánh (Đức tôn sư từng khuyên giải tại Quan Âm Tu Viện điều nầy, mà chính Đạo luật Quan Âm Tu Viện cũng ngăn không cho làm, mà chỉ khuyên lo tu hành trường chay niệm Phật).
Năm, đầu mặt khi lạy phải lạy xuống sát đất, nguyện cho chúng sanh bỏ lìa tâm kiêu mạn, đồng đặng trọn nên đạo quả vô thượng bồ đề (làm gì thì làm, nhưng nếu xưng là Phật tử, mà thấy quý Sư, quý Hòa Thượng, Thượng tọa Đại đức, quý Ni trưởng, Ni sư, Sư cô, nói chung là người tu mà không xá, không chào hỏi… thì không nên xưng là Phật tử có đi chùa!) Thật e ngại!
Sách Tây vức ký nói:”nghi thức để tỏ lòng thành kính có chín cách hỏi han quý Sư, Thầy lễ phép như dưới đây:
1). Thốt lời nhẹ nhàng thưa hỏi, hỏi han thăm sức khỏe,
2). Xá, cúi đầu để tỏ lòng kính mến, kính viếng
3). Dở tay đưa lên cao và hạ xuống để xá chào, một cách tôn kính, không qua loa cho qua lề lối, giả dối, không chân thật sẽ giảm phước báo.
4). Hoặc vòng tay, hoặc chắp tay vừa chừng, ngay trước ngực để kính chào.
5). Khi lạy, thì co đầu gối lại, lúc đứng dậy, muốn lui ra xa thì bước lui ba bước rồi mới quây lưng đi xa.
6). Quỳ gối mà duỗi dài hai chân ra (cách nầy thuộc Phật tử, những nhà quý phái Tây tạng, Mật tông. Ơ Việt Nam Đạo Phật du nhập đến nay trên 2000 chưa từng thực hiện…)
7). Đầu gối quỳ sát đất.
8). Năm vóc đều co thúc tròn lại (dành cho người nữ tu, nữ Phật tử)
9). Năm vóc điều gieo mình xuống sát đất.
Cả chín lễ phép cung kính trên, mà cái ưu điểm hơn hết là: hoặc một lạy, hoặc một quỳ, để khen ngợi những đức tốt đẹp người trên, tôn kính các bậc Hòa Thượng, Sư Thầy, ông bà cha mẹ, làm như thế gọi là hết lòng thành kính.
Người tín đồ Phật tử ngày nay nên học tập lời dạy của Ngọc Lâm Quốc Sư mà sữa chữa cho đúng, xứng danh người Phật tử:”gần đây, đạo pháp của người tu, ngày một yếu lần, bởi do ma chướng đắc thời được mạnh lấn át đạo đức làm cho xa rời con người! Cũng vì người lớn, người giáo hóa đồ chúng một vài Sư Thầy không đủ tư cách làm Thầy, không nghiêm huấn người tín đồ Phật tử từ đầu (một số chùa lớn ngày nay bị vướng vào điều nầy), lại dẫn dắt họ sa đà vào con đường mê tín, hoặc dẫn dắt họ tu hành không đúng tông chỉ… nên để cho một ít người có tâm tà kiến, đem tà giáo chen chân vào tông môn pháp phái, rồi ra nông nổi nầy…
Trong Sách Nhị Khóa Hiệp Giải, ngài Quán Nguyệt chú giải bảy phép lạy căn bản dành cho Tăng Ni, tín đồ Phật tử, những điều nào nên làm, điều nào không nên làm:
1/. Lạy bằng cách ngã mạn và cống cao: tức là lạy mà lòng không tôn kính người mình lạy, lạy cho lấy có. Ỷ lại vào bậc ngôi của mình, vì không tâm cung kính, cái ý thức rong theo ngọai cảnh, cái thân lạy mà năm vóc chẳng sát đất, tỷ như cái chày đạp giả gạo, nó chỉ vòng lên rồi hạ xuống mà thôi, chớ nó không có ý niệm gì.
2/. Lạy bằng cách kẻ xướng lên, người đọc theo: Bộ dạng lỡm chỡm, lòng dạ lao xao, thấy có ai thì hình như ta đây là Phật tử thâm niên, nhẹ nhàng bái lạy. Mọi người đi rồi thì trể nãi mệt mê hoặc tâm lòng tán lọan mà miệng thì xướng họa vậy thôi.
3/. Lạy bằng cách cả thân tâm đều cung kính: Nghe xướng danh Phật liền tưởng nhớ Phật, ngòai thân trong tâm thảy đều thành kính, với việc lạy đều tinh tiến ân cần chớ không trể nãi.
4/. Lạy bằng cách dấy trí thanh tịnh nơi lòng: hiểu thấu cảnh giới của Phật đều tùy nơi tâm để hiện lượng nên lạy một Phật tức lạy tất cả Phật, lạy một lạy tức là nhiều lạy, vì lẽ là pháp thân của chư Phật vẫn lẫn suốt với nhau, nghĩa là tự Phật tức tha Phật.
5/. Lạy bằng cách khắp vào cõi giới tánh: Tự xét các pháp và thân tâm ta từ trăm đời ta, từ trăm đời trước, cho đến đời sau, vậy nay chưa hề lìa pháp giới tánh, chúng sanh bình đẳng với Phật: chỉ lạy một Phật như lạy khắp cả chư Phật ở khắp pháp giới.
6/. Lạy bằng cách quán tưởng lòng chân chánh: Lạy ngay lấy Phật tánh của mình, chớ phi Phật nào đâu khác, bởi vì tất cả chúng sanh xưa nay đều vẫn sẳn sàng có Phật tánh hòan tòan bình đẳng chân giác.
7/. Lạy bằng cách thân tướng bình đẳng: sáu cách lạy trước có lạy có quán tưởng, tự Phật khác với tha Phật, chừ đây một lạy không hẳn lợi tha, phàm thánh như một thể dụng chẳng hai, nên Đức Văn Thù dạy: "tánh lạy vắng lặng, không phân biệt tâm cảnh, năng sở gì…” người phát tâm đi chùa lạy Phật, lạy pháp, lạy tăng cầu học Phật tu học đạo giải thóat, cầu thóat ly sanh tử… Như lời Phật dạy về sự phát tâm ở trong kinh Bốn Mươi Hai Chương, bản dịch Thiều Chửu, chương 36, xuất bản năm 1953 như sau:
“Thóat khỏi ngã ác trược sinh làm người, khó. Đã được làm người thóat khỏi mang thân đàn bà, đàn ông, khó. Được làm đàn ông sáu căn tòan vẹn, khó. sáu căn tòan vẹn sinh ở trung quốc (trung tâm văn hóa và Phật pháp), khó.Đã được sinh nơi trung quốc, nhằm đời có Phật ra,khó. Đã được gặp đời có Phật ra, khó. Đã được gặp đời có Phật ra, gặp đạo mầu,khó. Đã gặp đạo mầu khởi lòng tin, khó. Đã khởi lòng tin, mở lòng bồ đề, khó. Đã mở lòng bồ đề rồi, tới quả không còn phải đợi tu mới là chứng, khó… Nay các người Phật tử cách xa ta ngàn dặm, mà vẫn ghi nhớ các điều ta răn bảo tất chứng đạo quả. Ở luôn bên mình ta, mà không theo các điều ta răn, kết cục vẫn không đắc đạo. Không đắc đạo theo xưa, ngày nay thì gọi là không theo như ý muốn, do không vâng lời Phật dạy, làm khác đi việc của Phật, khiến cho chánh pháp lu mờ, không còn có cơ sở để kế thừa hay truyền đăng tục diệm.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

19 . NGÀY THỨ MƯỜI CHÍN:

Pháp lễ lạy của các tông phái

Bạch Sư! Xin Sư chỉ dạy cho chúng con về các phép lạy, chúng con phải lạy như thế nào cho đúng tông chỉ, pháp môn tu?

Lạy có nhiều pháp, mỗi pháp môn tu, mỗi tông phái đều có sự nhất quán về phong cách lễ lạy biệt truyền, xin đơn cử một số phương pháp lễ lạy…
Lạy diệt ngã:
Như ngài Bồ tát Thường Bất Khinh, trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Thường Bất Khinh. Bồ Tát Thường Bất Khinh gặp bất cứ chúng sanh nào thì ngài cũng nguyện xin đảnh lễ các người, vì các người đều sẽ thành Phật. Ngài đi đến đâu cũng lễ lạy như vậy từ kiếp tu hạnh Bồ tát nầy sang kiếp tu Bồ tát ở phương khác cũng đều đảnh lễ như thế… lạy để diệt ngã, lạy để chúng sanh thành Phật, lạy để hướng chúng sanh đến chổ giải thóat sanh lão bệnh tử khổ… không hề thối chuyển hay nhàm trể.

Lạy theo phái Bắc tông:
Trong Bắc tông cũng có pháp môn tu niệm Phật thuộc Tịnh độ tông. Thường là người lạy thì gieo năm vóc thành tâm kính lễ. Từ xưa đến nay người tu Tịnh độ thường lạy Hồng Danh Bửu Sám, lạy Tam Thiên Phật, lạy Vạn Phật, lạy Thường Tịch Quang Tịnh Độ, lạy Cõi an lạc Phương Tây, Tây phương Tam Thánh, lạy Thánh chúng, lạy Pháp Hoa, lạy Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Bồ Tát, lạy Sám lễ Dược Sư, lạy Thù Ân, lạy ân sâu nghĩa trọng của cha me, Thầy tổ, Quốc vương, đồng bào xã hội… Ngòai việc lễ lạy ra chư Tổ Sư, chư Thánh Tăng, chư Tôn Đức Trưỡng Lão còn nguyện đốt thân, đốt một phần thân thể, đốt tay, đốt liều cúng dường Phật, cúng Tam Bảo, cúng kinh Đại Thừa…
Nói là lễ bái theo Bắc tông, nhưng chư tôn túc Trưởng lão bên “tông” cũng như bên “giáo” cũng đều lễ bái theo Bắc tông, mà tu theo Bắc tông cũng chính là tu theo pháp môn niệm Phật Tịnh độ , hay tu Thiền tông cũng thế, cũng đều lập hạnh lễ bái cúng dường chư Phật mười phương, lễ bái theo Bồ tát Thường Bất Khinh, lễ bái theo Mật tông “Tam bộ nhất bái”, hay “Nhất bộ nhất bái”…
Tại miền Tây Nam Phần Việt Nam còn có một vài vị Đại sư Tịnh tông khuyết danh phát nguyện tụng kinh Lăng Nghiêm vừa tụng xuôi theo chữ trong kinh tạng, vừa tụng ngược chữ rất thuần thục; tạo cho tam nghiệp thanh tịnh để cúng dường lên Thập phương Điều ngự.
Khi Nhà sư Bắc tông cũng như Nhà sư Tịnh độ lễ bái thì hai bàn tay chắp vào nhau thật san sát, mười ngón tay cũng san sát, hai ngón cái áp lại và để song song theo hai bàn tay gọi là hiệp chưởng, theo hướng lạy và không chéo vào nhau. Chân thì đứng trang nghiêm hình chữ “bát”, đứng thẳng, thật trang nghiêm, vô cùng uy nghiêm giữa đại hùng bửu điện.
Lễ bái theo nhà Phật, là lễ theo hướng đạo giải thóat, không có gì phải ràng buộc, kềm thúc, hành giả lúc bấy giờ thật oai nghiêm như tượng vương, như rồng chầu hổ phục. Ngày nay còn có nhiều học phái Bắc tông Tịnh độ dạy cách lạy khi gieo năm vóc, đầu mặt sát đất, hai bàn tay úp xuống, rồi tiếp tục lật ngữa bàn tay lên, sau đó mới tiếp tục lạy, hay đứng lên để tiếp tục lạy thứ hai, thứ ba… Cách lạy nầy giúp cho hành giả lạy mà rất thanh thản, không gấp gáp, lạy mà thân tâm xả bỏ mọi thế cuộc, thân tâm giải thóat mọi phiền lụy trong thế gian, khinh xuất tam giới.

Lạy tam bộ nhất bái, hay nhất bộ nhất bái:
Đối với tín đồ Phật tử Việt Nam tuy có học hiểu biết pháp lạy nầy, song vẫn còn xa lạ với “pháp tu”, xa lạ vì ít hành giả thực hiện pháp tu. Lễ tam bộ nhất bái là truyền thống tu hành thông thường theo phái Mật tông của các nước Tây tạng, Vương quốc Bu-tan, Si-kim, Trung Quốc, Phật giáo Nga Á châu, Mông Cổ…
Khi lạy, hành giả có thể bắt đầu lạy từ nhà đến chùa, vượt hằng trăm, hằng ngàn cây số “tam bộ nhất bái” đến các trung tâm hành lễ tập thể, hoặc khi đến trung tâm hành lễ, bắt đầu từ cổng chùa “tam bộ nhất bái” đến chính điện, trong khi lạy hành giả niệm mật chú, theo các đại sư hướng dẫn...
“Nhất bộ nhất bái”, xưa nay thì chỉ có hạnh tu “tam bộ nhất bái” đã là xa lạ với Phật tử Việt Nam; còn hạnh tu “nhất bộ nhất bái” lại càng xa lạ hơn nữa, tại Việt Nam ở thế kỷ 21 có Thầy Tâm Mẫn, ở chùa Hoằng Pháp, Hốc Môn, Tp.Hồ Chí Minh phát tâm tu hành (khi đang viết bài nầy vào cuối mùa thu, tháng 7, năm Canh Dần,2010 thì Thầy Tâm Mẫn đã “nhất bộ nhất bái” đến tỉnh Quảng Ngãi)

Lễ bái theo hạnh tu Khất Sĩ:
Tức là Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam do Đức Giáo Tổ Minh Đăng Quang khai sơn sáng lập. Tại Việt Nam ngòai pháp phái Đạo Phật Khất Sĩ còn có nhiều phái Khất Sĩ khác như: Khất sỉ Đại sư Huệ Nhật, Khất sĩ của Sư Trưởng Hùynh Minh, Khất sĩ của Đức Thầy Từ Huệ, Khất Sĩ của Sư Trưởng Giác Thường, Khất sĩ Non Bồng của Hòa Thượng Thích Thiện Phước…
Tuy nhiên hạnh lễ bái của Nhà Sư thuộc Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Việt Nam luôn được tôn vinh là có đạo hạnh, có khuôn thước, mẫu mực. Người Du tăng Khất sĩ lễ bái Phật, lễ bái Pháp, lễ bái Tăng rất nghiêm túc, gieo năm vóc thành tâm kính lễ, sau khi lễ Phật, lễ Tổ sư, lễ Tăng… Nhà sư Khất sĩ đứng lên, trước khi đi ra phải đi lùi ba bước rồi mới đi. Đây là cách lạy nghiêm túc nhất xưa nay trong Phật giáo.
Vào những thập niêm năm mươi, đến bảy mươi, Nhà sư Khất sĩ khi gặp quý “Sư Lớn” đi hành đạo bất cứ nơi đâu, dù ở ngòai đường phố cũng đều gieo năm vóc kính lễ thật nghiêm túc (chính tác giả sách nầy đã từng đảnh lễ quý “Sư Lớn” ngòai đường phố tại trước chợ Bà Chiểu hay ở trước Trường Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định). Hình ảnh “lễ bái” cao đẹp nầy, nay đã giảm dần theo nếp sống mới.

Lễ bái theo Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng:
Tịnh Độ Non Bồng được Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước sáng lập tu theo tông chỉ Tịnh Độ niệm Phật “Bá Nhựt Trì Danh”. Ngòai ra còn có pháp “Phát nguyện niệm Phật”, “Lễ bái niệm Phật” là hạnh tu của liên hữu Tịnh Độ Non Bồng:
1/. Pháp môn Bá Nhựt Trì Danh, cầu sanh Tịnh Độ: là tông chỉ, là hạnh tu của Nhà sư Tịnh Độ Non Bồng. Được Đức Pháp Chủ thượng Khánh hạ Anh khai sơn tại Phật Học Đường Lưỡng Xuyên, Trà Ôn,Việt Nam. Về sau, năm 1960 Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước tiếp tục mở khóa tu dành cho Tăng Ni, Phật tử cả nước tinh chuyên tu hành cho đến hôm nay. Cũng năm 1960, Hòa Thượng Thích Hành Trụ cũng mở khóa tu tại chùa Chánh Giác, Gia Định dành cho chư Tăng và Phật tử tu hành cho đến khi ngài hành đạo về tại chùa Đông Hưng, Thủ Thêm.
Tuy nhiên cho đến nay chỉ có tông phong Tịnh Độ Non Bồng của Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước vẫn còn truyền đăng và hành trì. Ngòai hạnh phát nguyện niệm danh hiệu Phật A Di Đà, lễ bái niệm Phật là tông chỉ, Đức Tôn Sư còn tiếp nhận thêm pháp môn Bá Nhựt Trì Danh làm tông chỉ chính yếu trong Tịnh Độ Non Bồng.
2/. Pháp môn phát nguyện niệm Phật: là tông chỉ thứ hai của Tịnh Độ Non Bồng. Liên hữu Tịnh Độ Non Bồng kính tin Tam Bảo, hộ trì chánh pháp Phật Bổn Sư Thích Ca, kính tôn Phật A Di Đà là từ phụ, Đức Quán Thế Âm là hạnh lành cao cả của người tu cần phải học và thực hành “từ bi cứu khổ ban vui”.
Khi làm Phật sự nào cũng phát nguyện nghiêm túc, nguyện tu, nguyện hộ trì, nguyện làm lành bất thối chuyển, nguyện làm con Phật bất thối chuyển, nguyện xuất gia bất thối chuyển. Khi hứa giúp ai một việc gì, dù tán thân mất mạng cũng vẫn thực hiện cho kỳ được, không thất hứa.
Thời điểm tu “phát nguyện niệm Phật” trong các chùa của Tịnh Độ Non Bồng được quy định vào lúc 23 giờ mỗi ngày, mỗi liên hữu khi tham dự pháp tu niệm từ 15 phút đến 30 phút, tại các chùa thì niệm 60 phút mới hồi hướng. Trong thời gian niệm, tất cả chư Tăng Ni, Phật tử có mặt đều phải tham dự pháp tu, không một ai được ngủ nghỉ trong giờ “phát nguyện niệm Phật”
3/. Pháp môn lễ bái niệm Phật: Là tông chỉ thứ ba của người tu ở non núi; vì tu ở non núi nên lễ Phật, lễ Pháp, lễ Tăng, lễ các vị giáo chủ, lễ những người có công với nước non, quốc vương, khai quốc công thần, lễ cầu nguyện lục châu thế giới hòa bình, lễ cầu quốc thới dân an, nước nhà thái bình thịnh trị. Trong những năm 1959 đến 1965, chư Tăng Ni, Phật Tử Non Bồng thường xuyên thực tập “lễ bái niệm Phật”.
Lễ bái theo phong cách Tịnh Độ Non Bồng, là gieo năm vóc thành tâm kính lễ; có khi đứng lạy, quỳ lạy, người già yếu thì ngồi lạy. Chư liên hữu khi lạy xuống thì niệm câu :”Nam mô A Di Đà Phật”, khi đứng lên cũng niệm câu:”Nam mô A Di Đà Phật”. Người tu phát nguyện lạy như thế từ 3 lạy (lạy Tam Bảo) đến 12 lạy (12 câu nguyện Nam mô An Dưỡng Quốc, 12 câu nguyện Quán Thế Âm…), 48 lạy (lạy 48 lời nguyện của Phật A Di Đà),108 lạy (vừa lạy vừa niệm Phật).
Khi thực hành khóa tu lạy Phật, thì có vị duy na điểm chuông gia trì thật chậm cho liên hữu lạy Phật. Tư thế “đứng lạy” của Liên hữu Tịnh Độ Non Bồng như sau: hai bàn chân phải khép sát vào nhau, không đứng hình chữ “bát”, hai bàn tay chắp vào nhau, hai ngón tay cái xếp lên nhau. Đôi bàn chân đứng theo hình chữ “nhất” biểu hiện cho nội lực vững vàng, không ngã nghiêng, ngã ngữa, dễ dàng đưa hành giả đạt đến chổ nhất tâm, nghiêm túc giữ gìn giới pháp Phật, hai ngón tay cái xếp lên nhau biểu hiện cho sự tinh tấn, kiên tâm trì chí, tâm chí vững bền, tu hành bất thối chuyển.
Liên hữu Tịnh Độ Non Bồng, thường xuyên lễ sám Kinh Dược Sư, lạy Vạn Phật, lễ Pháp Hoa, lễ Tam Thiên Phật, lễ sám Ngũ Bách Danh Quán Âm Bồ Tát, lạy Thù Ân, lễ bái Tôn Sư, Thầy Tổ, lễ bái quý Sư Lớn, lễ bái những người già cả (trong ngày lễ Vu Lan)… lễ xong xá ba xá, lui ba bước rồi mới đi ra ngòai.
Thời gian tại Non Bồng, trong một ngày Tăng Ni, Phật Tử lễ bái hai lần, buổi sáng và buổi chiều, thường là lễ bái tập thể, từ một trăm người trở lên, đứng lạy, không quỳ hay ngồi mà lễ lạy.Hoặc từng cá nhân chư Tăng Ni, tín đồ Phật tử lập hạnh: sáng, trưa, chiều đều mặc áo tràng lễ bái Phật, Bồ tát, lễ bái Tổ Sư. Ngày nay, đã trên năm mươi năm rồi nhưng chư Tăng Ni, Phật tử vẫn còn thực hành “lễ bái niệm Phật” như xưa, trong thời gian nhập thất 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày hay 100 ngày.

Lễ bái Kinh Diệu Pháp Liên Hoa:
Tại Việt Nam có rất ít người tu lạy (lễ bái) Kinh Pháp Hoa, những nơi có chư Tăng Ni phát tâm lạy kinh Pháp Hoa, như ở Chùa Vạn Đức, Vạn Hạnh (Thủ Đức). Một vài vị Tăng Ni xưa ở miền Tây Nam phần Việt Nam cũng từng tu hạnh lành lễ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Năm 1964, Cụ Bà Diệu Âm, liên hữu Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, quản lý các Tăng Ni sinh tại Tổ Đình Linh Sơn phát tâm lạy từng chữ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Năm 1969, tại Quan Âm Tu Viện dưới sự hộ trì của Đức Tôn Sư và Sư Bà Thích Nữ Huệ Giác, Hòa Thượng Thích Giác Quang phát tâm nhập thất lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa tại Tịnh thất Bảo Tịnh.
Pháp tu lạy Pháp Hoa, tức là lạy từng chữ trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh Diệu Pháp Liên Hoa có 60.000 chữ ( trên thực tế có khoãng 76.460 chữ). Muốn lạy được kinh Pháp Hoa, hành giả phải thực hiện nhập thất 100 ngày trong năm; trong 100 ngày đó, mỗi ngày thực hiện sáu thời lạy, mỗi thời lạy 125 lạy và lạy đứng.
Điều cần thiết là trong thời khóa tu phải có hai người hộ trì chính yếu: một là Thầy Bổn sư hay một tu sĩ có phước đức trí tuệ cao viễn hơn hành giả để cân nhắc đến giờ lễ bái, cầu thỉnh long thiên hộ pháp bát bộ kim cang lai hộ trì gia hộ giữ gìn lực nội tại; hai là vị Thị giả thân tín, phục vụ ăn mặc ở bệnh, canh giữ bên ngòai không cho người ngòai xâm phạm nội giới (số lượng lạy như thế, trong quá trình tu tập của chúng tôi, nhận thấy có lạy thêm nữa cũng không đủ sức đâu các bạn ạ!).
Ngày khai kinh, hành giả mặc y áo tề chỉnh trang nghiêm, thật chậm rãi đến trước bàn Phật đảnh lễ Tam Bảo, đọc bài Chiên đàn hải ngạn…, tụng chú Đại bi…, niệm khai kinh kệ…, rồi đứng chắp tay, tiếp tục đọc câu: “Nam mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Nam mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát, nhứt tự “DIỆU”, điểm chuông rồi lạy 1 lạy”.
“Nam mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Nam mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát, nhứt tự “PHÁP”, điểm 1 tiếng chuông rồi lạy 1 lạy”
“Nam mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Nam mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát, nhứt tự “LIÊN”, điểm 1 tiếng chuông rồi lạy 1 lạy”
“Nam mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Nam mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát, nhứt tự “HOA”, điểm 1 tiếng chuông rồi lạy 1 lạy”… cứ như thế tiếp tục lạy từng chữ trong Kinh…
Trong 100 ngày lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa sức khỏe phải đầy đủ, chỉ trừ tắm rữa,vệ sinh, các việc còn lại tuyệt đối cắt đứt muôn duyên, không công tác Phật sự, không thuyết pháp, không còn tiếp xúc với ngọai nhân, nếu còn tiếp xúc thì không lạy, không lạy thì không còn gọi là lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa nữa!
Trong thời khóa tu, ở nơi am thất phải thông thoáng, đóng kín cửa thất chính, mở cửa sổ phía không bóng người lai vãng; không sắm vật chất nhiều trong am thất, các vật dụng như radio, tivi, cassette, tập sách, chén bát, ly tách (chỉ để lại một cái), thức ăn vặt. Thu dọn đem những giấy mực, những tranh ảnh dán trên tường (trừ ảnh Phật), bao nylon chai gọ không cần thiết đi nơi khác.
Nhìn chung, lễ bái của Nhà Phật có nhiều cách: lạy theo hạnh lành Bồ tát Thường Bất Khinh (diệt ngã, thọ ký cho chúng sanh), lạy theo hạnh Nhà Sư Bắc tông (khi lạy, một tay để ngực, một tay lạy, khi quỳ đến sát đất, hai tay mới đồng lạy, hai bàn tay ngữa lên, đầu chấm sát đất) , lạy theo hạnh Tịnh Độ, lạy theo hạnh Mật tông (kết chú ấn), lạy theo Luật tông (xá ba xá lui ra ba bước rồi mới đi ra), lạy theo hạnh Khất sĩ, (như hạnh Luật tông) lạy theo hạnh Tịnh Độ Non Bồng (đứng lạy)… Nhưng tất cả đều hướng về đạo lý giải thóat, mỗi mỗi pháp môn tu đều có phong cách riêng, nhằm để giúp cho đại chúng của môn phái mình lập hạnh tu tập.
Bạch Sư! Một số người đi xe con đến chùa, dáng vẽ “tay to, mặt lớn”, khi thì lạy Phật, khi thì không lạy Phật, không biết kính trọng chư Tăng, không kính trọng Thầy Tổ, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ni Trưởng, Ni Sư là gì?… họ luôn bất kính, cũng chẳng quy y Tam Bảo… Họ đi chùa chủ yếu là xin phép làm ăn. Các vị còn nói: ”có lễ nghĩa mới sanh phú quý”?
* Thật ra thì nhà Phật không ngăn cản sự thành đạt giàu có của tín đồ Phật tử, thậm chí nhà Phật còn hướng dẫn cách phát triển kinh tế gia đình, tự túc bản thân. Song các Tự Viện, chư Tăng Ni đều không có nhu cầu: “có giàu rồi mới sanh lễ nghĩa”; “giàu” hay “nghèo” cũng là Phật tử, là đệ tử đức Phật, cũng đều được quy y Tam Bảo, nhà Phật thu nhận đệ tử không có lựa giàu nghèo, cũng như nói đến đạo đức thì không luận bàn giàu nghèo.
Những người dạy Phật tử đi chùa để xin phép làm ăn, công khai làm điều tà kiến mê tín trước Tam bảo, không biết hướng dẫn Phật tử quy y Tam Bảo là gì, bất kính Thầy Tổ, chư Tăng Ni, không giới không luật… thì không phải là thầy tu; các vị ấy làm thầy mà chưa học cách làm thầy!
Trong kinh Di Giáo, Đức Phật dạy ở chương Một cho người sau nên xa lìa tà kiến mê tín dị đoan, hoặc trong sách Luật học “Yết ma yếu chỉ” của Hòa Thượng Thích Trí Thủ bàn về “tư cách làm thầy:” làm bậc thầy thu nhận đệ tử mà không biết giáo dục là một trọng tội…” ( trang 87).
Nói về tư cách làm thầy, có năm điều mà người đệ tử đức Phật phải có:
1. Tuổi đạo phải đủ mười hạ.
2. Phải biết các trường hợp trì và phạm, khinh và trọng về giới luật.
3. Kiến thức phải rộng rãi.
4. Có đủ khả năng giải quyết những tâm tư khúc mắc của đệ tử.
5. Có khả năng đọan trừ tà kiến cho đệ tử
…làm thầy phải biết giáo dục đệ tử tu giới, định và tuệ… Nếu tự thấy mình quá yếu kém trong các khoa mục đó, thì khoan làm thầy vội, mà bản thân cần phải tự cố gắng để đạt đến trình độ khả quan, chứ không nên thu nhận đệ tử một cách cẩu thả vội vàng, vô trách nhiệm (Yết ma yếu chỉ, HT Thích Trí Thủ biên sọan, trang 88,89)

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo

PHẦN VI
Giáo lý Phổ thông
&&&

CHƯƠNG THỨ MƯỜI

20 . NGÀY THỨ HAI MƯƠI:
Nói về các uế trược các sự khổ ở Ta Bà

Bạch Sư! Đạo Phật thường nêu các khổ nạn của thế gian, ở các kinh đều có lời chỉ dạy thế gian là khổ, nên khuyên tu cầu thóat khổ, thóat khỏi ngũ trược ác thế để trở về với cõi Thanh Thái. Xin Sư giảng dạy cho chúng con được học, học để tu, tu cầu giải thóat, giải thóat phiền não thế gian?
* Muốn thóat khổ ở thế gian kinh qua pháp môn niệm Phật của Tịnh độ tông, theo Kinh A Di Đà nên xem lời chú giải của Ngài Quán Nguyệt, bản dịch của Đức Pháp chủ Khánh Anh để biết rõ ràng mặt mày của nghiệp lực, ngũ trược ác thế của cõi ta bà, những sự khổ của thế gian. Từ đó mà phát tâm niệm Phật, tưởng Phật, gần gũi Phật Pháp, hiện tiền cũng như lâm chung được sanh về cõi nước của Đức Phật A Di Đà.
Ở thế gian có năm điều trược ác chủ chánh, là: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược:
1/. Kiếp truợc: là thời kiếp ác trược, danh nghĩa của kiếp là nó kiêm cả bốn trược sau, nào là các pháp của thân tâm tụ hội, đều có thời tiết ngắn dài sanh diệt, trôi lăn trong sáu nẽo (thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh), hòa hợp ly tan, khổ đau vằn vặt, thời gian trôi đi như vó câu, không dừng lại theo ý muốn chúng sanh.
2/. Kiến trược: Là kiến thức ác trược, thuờng còn, có, không v.v... chúng sanh đều chấp một bên (thân kiến, biên kiến), mà thành cái thấy mê lầm bằng năm lợi sử. Lại suốt ngày rượt theo hoàn cảnh, dấy lên các tướng vọng niệm phân biệt luôn so le với nhau không tạm ngừng dứt được.
3/. Phiền não trược: Sáu căn đối với sáu trần, nhơn đó, ý thức nó tùy theo cảnh ngộ, nảy sanh các vọng niệm: mừng, giận, ghét, thương, vui, buồn.v.v..tức là năm thứ độn sử: tham, sân, si, mạn, nghi.
4/. Chúng sanh trược: thức của con lẫn lộn tinh huyết cha mẹ, chung lại kết thành thân ngũ ấm, thì có cái ngã tướng. Cái thân có sanh tử ấy, nó ở giữa lục đạo, cứ sanh sanh tử tử mãi, để luân hồi níu liền nhau chẳng dứt.
5/. Mạng trược: hơi thở còn tiếp tục ra vào, là các căn, sanh mạng của thân, nếu một chổ trở ra rồi không trở lại, thì đồng tro đất. Phật dạy: mạng sống ở giữa hơi thở hút, lại bị lạnh nắng đổi thay, dung nhan biến dần, rút ngắn tuổi thọ.
Trên đây là nói về năm truợc ở cõi ta bà, người tu hành niệm Phật được sanh về thế giới Cực lạc, giải thóat ngũ truợc, được sống trọn ngũ thanh. Sau đây là ngũ thanh của cõi Thanh Thái, tức Tịnh Độ, Tây phương Cực lạc. Một thế giới thanh tịnh, cõi nước mà người tu dùng phương tiện tu hành niệm Phật, tưởng Phật, nhớ Phật mà nguyện sanh về cõi ấy (sách Nhị Khóa Hiệp Giải).
Ngũ thanh là:
1/. Kiếp thanh: Nước Cực lạc chẳng có thời cuộc biển thẳm hóa nương dâu, không có những đổi dời, chấm dứt những khổ đau, thời tiết điều hòa, không mưa gió bão bùng đau thương ly biệt.
2/. Kiến thanh: Thường thấy nghe diệu pháp, tâm luôn chánh kiến, chánh tư duy, tất cả những nghĩ suy điều chánh đáng.
3/. Phiền não thanh: Đắc trí thanh tịnh, không có phiền não sanh, nơi cõi nước chỉ có thánh tam thừa, trí năng thanh tịnh và không sanh khởi lậu hoặc. Vì không nhiễm ô nên không có phiền não mê lầm.
4/. Chúng sanh thanh: Tự tha bình đẳng, vì tòan là thượng thiện nhơn, không có giai cấp cao thấp, mọi chúng sanh đều đắc quả vô sanh, không có những người ác, hiếp đáp lẫn nhau.
5/. Mạng thanh: Phật và chúng sanh đều sống vô lượng tuổi, do lấy trí tuệ làm sinh mệnh, nên không sinh tử luân hồi.
Chúng sanh phát tín tâm niệm Phật, biết quy y Tam Bảo kính Phật trọng Tăng, biết quý kính Hòa Thượng, Thượng tọa, Trung tọa, Hạ tọa. Kính người tu hành, các người ấy sẽ sanh về nước Cực Lạc, có cuộc sống an lành, tất cả việc làm đều là đại thiện nghiệp, việc làm ăn không còn vất vả, không nợ nầng, cuộc sống sung túc hẳn lên, tự mỗi người biết phát huy tánh thiện nhiều hơn ác, không còn cảnh xin phép làm ăn, xin ban bố phép mầu mua thần bán thánh, xin phép mở xí nghiệp công ty mà tự người ấy có đủ khả năng ăn nên làm ra và được hưởng thụ trọn vẹn tài sản.
Ngòai những ngũ trược trong thế gian, đưa chúng sanh đến chổ chìm đắm trong tam giới, Đức Phật Thích Ca còn chỉ rõ về tam khổ trong thế gian, giúp cho chúng sanh thóat khỏi những khổ đau oằn oại trong thế giới ta bà.
Tam khổ là:
1/. Khổ khổ: Tất cả chúng sanh trong tam giới mang thân phân đọan sanh tử đã là khổ rồi. Riêng về chúng sanh cõi dục thân khổ trược hơn, khổ nhân, quả báo lúc nào cũng nặng nề chìm đắm trong biển khổ.
2/. Họai khổ: Dù đặng phước vui thanh tịnh thiền định ở Sắc giới, đi ở tự do đi nữa, mà hễ hưởng phước hết rồi thì cái thân phải bị phá họai, vẫn đọa chịu khổ cõi dục.
3/. Hành khổ: Dù tu đắc định lực ở cõi vô sắc giới, sống lâu tám vạn kiếp, không lụy vì đến thân, nhưng trong thiền định còn có điều khổ vi tế luân lưu, vận chuyển khắp ta bà khổ hãi.
Khổ khổ, họai khổ, hành khổ được Đức Phật cân nhắc trong pháp tứ đế, lần đầu tiên được Đức Phật thuyết giảng tại huê viên Lộc Uyển, Ngài chỉ rõ những khổ đau oằn oại, sanh lão bệnh tử trong cuộc đời, những pháp vô thường khổ không vô ngã để cho con người tiếp nhận những ý thức mới mà tránh được những cái khổ nêu trên. Khi đã hiểu thì họ tự thoát, tự tìm đường thóat, đấy là ánh đạo, là giáo lý thực tiển sống động nhất của Đạo Phật, mà Đức Phật Bổn Sư Thích Ca đã khai sáng hoằng truyền cách đây trên 2554 năm, cho đến hôm nay vẫn còn phù hợp với từng thời đại. Đã thế mà mọi người trên hành tinh đều nghiên cứu thực tập tu học đưa đến kết quả cao. Đấy là pháp Tứ diệu đế và ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp.
Mô Phật chúng con đã hiểu!
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT

21 . NGÀY THỨ HAI MƯƠI MỐT:

Giáo pháp Tứ Diệu Đế

Bạch Sư! Xin Sư giảng giải về Tứ Diệu đế, chúng con muốn thọ học bài pháp đầu tiên của Đức Phật chuyển pháp luân?

* Tứ Diệu đế là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế là bộ kinh nhan đề là Chuyển Pháp Luân của đức Phật giảng tại vườn Lộc Uyển
1/. Khổ đế: Là chơn lý chắc thật, sau khi thành đạo; Ngài đã vạch những mặt mày của sự thể thế gian chỉ là sự khốn khó, chịu đựng, những kham nhẫn oằn oại đau khổ trong cuộc đời. Chúng sanh trong đó chủ yếu là con người kề từ khi sinh ra gọi là “sanh”, cho đến khi chết gọi là “diệt”. Chịu nhiều khổ não không ngừng dứt trong quá trình “sanh” “trụ”, luôn cưu mang trong mình những sanh, lão bệnh, tử… chịu nhiều sự đớn đau dồn dập trong nhà lữa của thế giới tham sân si như thế cho đến khi “họai” “diệt”.
Trong quá trình “Họai” “diệt” luôn tiếp nhận những nghiệp lực mới để thọ sanh thân khác “sanh”, “trụ” như thế gọi là “trầm thống trong cõi luân hồi sanh tử”.
2/. Tập đế: là chân lý chắc thật, trình bày nguyên nhân của bể khổ trần gian, là nguyên nhân vì đâu có những nổi khổ ấy. Khổ đế như là bản kê hiện trạng của chứng bệnh, còn tập đế như là bản nói rõ nguyên nhân của chứng bệnh lý do vì sao có bệnh.
3/. Diệt đế: Là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng hòan cảnh, quả vị an lành, tốt đẹp mà chúng sanh sẻ đạt đến khi đã diệt trừ được những nổi khổ niềm đau và những nguyên nhân của nổi khổ niềm đau ấy. Diệt đế như là một bản cam đoan của lương y nói rõ sau khi người bệnh lành thì sẽ ăn ngon, ngũ yên như thế nào, thân thể sẽ tráng kiện, tâm hồn khoan khoái như thế nào. Diệt đế tức là Niết Bàn tịch tĩnh.
4/. Đạo đế: Đạo đế là những phương pháp đúng đắn, chắc thật để diệt trừ đau khổ. Đó là chân lý chỉ rõ con đường quyết định đi đến cảnh giới Niết Bàn. Nói một cách giản dị, đó là những phương pháp tu hành để diệt khổ và đưa đến quả an vui. Đạo đế chính là chân lý chính chân chính đẳng chính giác, đưa chúng sanh đến bến an vui.
Nhà Phật học Hồng Tại Đòan Trung Còn luận giải về Tứ diệu đế như sau:
Tứ diệu đế là bốn chân lý mầu nhiệm, cũng kêu là tứ thánh đế, tứ đế, chơn đế, tứ thánh thật.
Trong khi chuyển pháp luân ở thành phố Ba La Nại, Đức Phật có dạy, như vầy:
1/. Nầy là sự khổ: Sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, oán tắng hội khổ (người không ưa mà gặp mãi), ái biệt ly khổ (xa lìa người mình yêu thương), không được như ý (cầu bất đắc khổ), ngũ ấm xí thạnh khổ (đeo theo sắc thân, đeo theo các sự thọ cảm,tưởng tượng, hình ảnh, các sự hành động trong lòng, với tri thức của mình, tức là đeo theo ngũ uẩn, cả đời mình phải cưu mang tấm thân một cách nặng nề không bao giờ ngừng nghỉ… tất cả đều là khổ khổ.
2/. Nầy là nguồn gốc của sự khổ: Ham sống, làm cho nhơn lọai chết đi sống lại mãi, mà hể biết ham sống tất biết ham những việc vui sướng, càng được càng ham. Muốn ham cho được thì phải có quyền thế. Vậy thì quyền thế, ham vui, ham sống là nguồn gốc của sự khổ.
3/. Nầy là phương pháp để diệt trừ sự khổ: Hạ cái lòng ham muốn, rồi lần lần bỏ nó đi, trục nó ra khỏi mình và không còn biết đến nó nữa. Xả bỏ mọi phiền trược thế gian, sống trong trạng thái an lạc, tức là Niết Bàn.
4/. Nầy là đường đạo để dứt trừ sự khổ: Có ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp, trong đó có tám đạo chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Pháp tứ đế là do Phật thuyết, tức là pháp của các bậc thánh đệ tử Đức Phật, tứ diệu đế sẽ độ thóat những nổi khổ niềm đau về sanh, lão, bệnh tử và cuối cùng tiến thẳng đến Niết bàn.
Trong kinh Niết bàn, hiểu tứ diệu đế hay tứ thánh đế có hai hạng: một là hạng trung trí hai là hạng thượng trí. Hạng trung trí là thinh văn, La hán, Bích chi Phật và Duyên giác; hạng thượng trí là Phật và Bồ tát. Hạng trung trí hiếu đó là chơn lý, là thánh đế và thi hành. Còn hạng thượng trí là phân biệt bốn chân lý mầu nhiệm, bốn thánh đế ấy có vô lượng thể tướng, vô biên diệu dụng, hạnh lành để tu hành.
Tứ đế là giáo lý cơ bản, quan trọng, người Phật tử không thể không hiểu biết, không hiểu biết về tứ diệu đế là không hiểu biết gì về giáo lý đạo Phật cả. Người Phật tử hơn ai hết, phải thấu triệt cõi đời là khổ. Muốn thế, không gì hơn là hãy lắng nghe Đức Phật dạy về khổ đế, vì chỉ có khổ đế mới nói lên một cách tường tận, đầy đủ chính xác về mọi nổi khổ đau của cuộc đời.
Thấy rõ mọi nổi khổ đau rồi, chúng ta cần tìm hiểu vì đâu có khổ, nguyên nhân của khổ đau do đâu mà có. Vì chỉ khi nhận thấy được nguồn gốc của nó, mới có thể diệt trừ tận gốc khổ. Điều nầy, cũng không chổ nào nói rõ ràng, phân tích rành mạch bằng Tập đế. Nhưng thấy được mọi nổi khổ đau của cõi đời và nguồn gốc của nó, không phải để bi quan, chán ngán, khóc lóc rên siết. Nếu thế thì không có gì tiêu cực bi quan bằng. Một ít dư luận tưởng lầm đạo Phật là yếm thế, bi quan
Là vì học chỉ tu học, nghiên cứu, đọc học ở hai phần đầu của tứ diệu đế.
Nhưng đối với người Phật tử thì không dừng lại đó. Đã thấy đau khổ làm cho cuộc đời xấu xa, đen tối, khổ đau, thì phải diệt trừ. Hạnh phúc không đâu xa, hạnh phúc ra ngay sau khi đã diệt trừ được đau khổ. Đau khổ lùi bước thì hạnh phúc đến, như bóng tối tan thì ánh sáng thay vào, an lạc đến thì phiền não mất. Muốn thấy ánh sáng của Niết Bàn thì phải thực hiện những lời dạy của Phật theo chơn lý diệt đế.
Muốn thực hiện Niết Bàn thì phải có đủ phương tiện, những phương tiện nầy, Đức Phật đã dạy thật đầy đủ trong đạo đế: phần ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp.
Đức Phật là Thầy dẫn đường cho chúng sanh và chúng ta đi từ cõi đời đen tối đến ánh sáng quả vị giải thóat tối cao. Ngài đã cho chúng ta một bản đồ chỉ dẫn rõ ràng về một hành trình cứu cánh và ban cho Phật tử chúng ta đầy đủ phương tiện cần thiết trong một đời hành hương về cố quán. Chư vị Phật tử chúng ta tiếp nhận và đi theo con đường ấy.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

22 . NGÀY THỨ HAI MƯƠI HAI:

Giáo pháp Đạo đế

Bạch Sư! Xin Sư từ bi chỉ dạy sâu sát về phần Đạo đế cho Phật tử chúng con được tiếp thu những ý tưởng phần tinh hoa giáo pháp Phật, ngõ hầu tiến tu đạo nghiệp. Xưa nay chúng con đi chùa chỉ biết có cúng kiến, lễ bái qua loa, làm có hình thức cầu danh, cầu tài cầu lộc… không biết đường nào là lối thóat cuối cùng trước bến tử sanh trong cuộc thế.
Theo bài giảng trên Sư có dạy về từ Phật học Đạo đế, mong Sư từ bi hoan hỷ chỉ dẫn cho chúng con được học về phần Đạo đế?

* Đạo đế là phương pháp tu hành chân chính, có hiệu quả chắc thật để tiến tu thành Phật. Đức Phật đến với chúng ta là để chỉ dẫn cho chúng ta phương pháp tu hành thóat khổ, Ngài không trực tiếp cầm tay đưa chúng ta đến Niết Bàn cực lạc thành Phật, tức là Ngài chỉ rõ phương pháp tu hành để đến cứu cánh, trong đó có Đạo đế là phương pháp tối ưu.
Đạo đế là chơn lý quan trọng nhất trong tứ diệu đế, vì có biết rõ đời là đau khổ, nguyên nhân của nó là gì và nếu có thiết tha cầu giải thóat khỏi cảnh khổ đế đến một cõi an vui tốt đẹp nhất là Niết Bàn. Nhưng nếu không có phương pháp hiệu nghiệm để thực hiện ý muốn ấy, thì biết cho nhiều cũng vô ích và càng thêm đau khổ. Do đó, đạo đế là phần quan trọng và được Phật dạy một cách rõ ràng chu đáo.
Đạo đế tức 37 phẩm trợ đạo pháp, cũng gọi tam thập thất phẩm, tam thập thất phẩm pháp, tam thập thất bồ đề phần pháp, tam thập thất trợ bồ đế pháp, tam thập thất trợ đạo chí pháp.
Phần thứ nhất, tứ niệm xứ gồm có bốn phẩm:
1). Quán thân bất tịnh: xem xét lại thân thì thân chúng sanh luôn luôn có nhiều nhơ nhớp.
2). Quán thọ thị khổ: xem xét phần thọ cảm, lúc khổ lúc vui là khổ lụy
3). Quán tâm vô thường: xem xét tâm ý là vô thường, tâm không thường còn, vừa xuất hiện thấy niệm đó rồi niệm đó mất, tâm khi vầy khi khác, tâm viên ý mã.
4). Quán pháp vô ngã: Quán xét muôn vật đều không thật có.
Phần thứ hai, tứ chánh cần gồm có bốn phẩm:
5). Không phạm tội lỗi nữa, nếu đã lỡ phạm
6). Tội lỗi nào chưa phạm thì không phạm
7). Tập làm các điều thiện, các điều thiện dù nhỏ, nhưng chưa từng làm.
8). Lúc nào cũng hướng về công việc thiện, làm cho tăng trưởng các điều thiện mình đã làm.
Phần thứ ba, tứ như ý túc, gồm có bốn phẩm:
9). Lòng muốn đặng pháp thần thông
10). Lòng thệ nguyện tu đạt đến Niết Bàn
11). Giữ gìn tư tưởng tinh tấn, lúc nào cũng tiến tu tịnh nghiệp, niệm Phật, thiền định, giữ giới.
12). Tham cứu đạo lý, luân lý đạo Phật, cũng như giáo pháp tứ như ý túc
Phần thứ tư, pháp ngũ căn, gồm có năm phẩm:
13) Niềm tin thật vững vàng, hăng hái
14). Thệ nguyện mạnh mẽ, tu hành bất thối chuyển
15). Tâm niệm quả quyết, chính chắn
16). Tâm luôn giữ chánh định không lay động
17). Trau giồi trí tuệ sáng suốt mà nhận định, chọn pháp tu hành
Phần thứ năm, pháp ngũ lực, gồm có năm phẩm:
18). Sức mạnh niềm tin
19). Sức mạnh của lời phát nguyện
20). Sức mạnh của tâm niệm quả quyết
21). Sức mạnh của định, dẫn đến gọi là tam muội, đốt cháy hết phiền não tham sân si.
22). Sức mạnh của tuệ sáng soi thấu triệt các căn tánh chúng sanh, khiến họ bước ra khỏi trầm luân sanh tử.
Phần thứ sáu, thất giác chi có bảy phẩm:
23). Trạch pháp giác chi: trí lực chọn chánh pháp, phân biệt tà pháp
24). Tinh tấn giác chi: trí tinh tấn mạnh mẽ tu hành đúng chánh pháp
25). Hỷ giác chi: trí hoan hỷ đặng nương theo chánh pháp mà tu hành
26). Khinh an giác chi: trí nhẹ nhàng trừ bỏ các chướng ngại
27). Niệm giác chi: trí thường niệm định và tuệ, đưa đến chổ nghiệp dứt tình không.
28). Định giác chi: trí thường ổn định không tán lọan
29). Xả giác chi: trí bỏ các pháp tà, các điều đã làm
Phần thứ bảy, bát chánh đạo có tám phẩm:
30). Chánh kiến: thấy mọi việc chân chánh
31). Chánh tư duy: suy nghỉ chân chánh
32). Chánh ngữ: lới nói chân chánh
33). Chánh nghiệp: việc làm chân chánh
34). Chánh mạng: làm việc chân chánh
35). Chánh tinh tấn: một lòng tu hành bất thối chuyển
36). Chánh niệm: niệm chân chánh
37). Chánh định: định lực chân chánh, tu thiền định theo pháp Phật, không theo tà kiến ngọai đạo.
Trong đó chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn thuộc về “giới”; chánh niệm, chánh định thuộc về “định”; chánh kiến, chánh tư duy thuộc về “tuệ”.
Nhơn giới sanh định, nhơn định phát tuệ, đưa người tu đạt đến đạo quả giải thóat.
Nhà tu hành mà có được ba mươi bảy phẩm trợ đạo ấy cho đầy đủ thì thành đạo. Bậc A la hán, Duyên giác, Độc giác, Bích Chi Phật hay bậc Phật Như Lai đều có tu hành ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đó là chổ tu chung của tam thừa.
Bồ tát tu lục độ và tu Tam Thập Thất Đạo Phẩm xong, thì đắc quả vị Như Lai.
Kinh Niết Bàn, quyển 14, dạy: Nhơn sáu Ba la mật, Ba mươi bảy pháp trợ bồ đề, Như Lai biết rõ các pháp.
Đấy chính là Đạo đế, Phật tử cố gắng nghiên cứu học tập tu hành

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI

23 . NGÀY THỨ HAI MƯƠI BA:
Giáo pháp Thập Nhị Nhơn Duyên

Bạch Sư! Phần tứ đế cũng như giáo pháp quan trọng của Phật là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, bát chánh đạo chúng con đã được nghe và hiểu. Chúng con sẽ áp dụng vào đời sống thực tế để tu hành. Tuy nhiên đấy là pháp tu hành cho Thinh văn. Chúng con muốn biết pháp tu của bậc Duyên Giác, xin Sư giảng giải cho chúng con tường tận?

* Thập nhị nhân duyên là pháp tu của bậc Thánh trung thừa: Duyên giác, Độc giác cũng như Bích chi Phật. Các bậc nầy do ngộ lý nhơn duyên mà tu chứng, hiểu được các pháp tự tánh không, do duyên hợp huyển có. Cái nầy có, thì cái kia có, cái nầy không thì cái kia không... hiểu như thế hành giả không còn bị ô nhiễm trong cuộc đời mà đắc nhập Niết Bàn, tự tại vô ngại.
Thập nhị nhơn duyên, tức mười hai cái nhơn duyên cùng nhau, níu kéo nhau từ đời vô thỉ đến nay và luân hồi mãi mãi về sau, nên con người ta bị luân hồi mãi trong sáu nẻo, có vui, có buồn, có khổ, có sướng lẫn lộn nhau, nhưng sự buồn khổ đau đớn thì có phần lớn hơn tất cả.

Mười hai nhơn duyên trong ba đời:
A/. VỀ ĐỜI ĐÃ QUA (quá khứ):
1/. Vô minh: vì không hiểu đạo nên mới bám níu, tham mê trôi lăn trong biển khổ.
2/. Hành: những hành động từ trong tâm kết thành nghiệp lực lôi kéo con người trôi lăn trong bến mê từ đời nầy sang đời khác, không dừng nghỉ.
3/. Thức: sự hiểu biết, nhưng hiểu biết những chuyện thế gian, chuyện ái dục, chuyện phiền não tham sân si.
4/. Danh sắc: có hình tướng, tiếng gọi để chỉ ý nghĩa cuộc sống, thân danh sắc tức là ngũ uẩn.
5/. Lục nhập: sáu căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý duyên với sáu trần sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; sanh ham thích không bao giờ dừng nghỉ.
6/. Xúc: sau khi ra khỏi lòng mẹ, gặp việc nầy việc kia, biết đòi ăn kêu la khóc lóc, cho tới chu kỳ ba bốn tuổi.
7/. Thọ: khi khôn lớn, biết đủ thất tình lục dục, mừng giận, buồn, vui, thương, ghét, ham muốn, từ năm tuổi cho đến mười ba tuổi.
8/. Ái: biết thương yêu nhau, mơ ước về tình dục, từ 14 tuổi đến 19 tuổi
9/. Thủ: chấp có thân nam thân nữ, lập thành vợ chồng, đam mê tình dục, nhục dục.
10/. Hữu: coi sự việc trên thế gian là vững chắc, bền bĩ, sanh con đẻ cháu, giữ gìn viềng mối gia phong, không để bị mất.
(đến đây là nhơn duyên đời hiện tại).
11/. Sanh: muốn sanh ra nữa đặng có hưởng sự mê dục, tiếp tục khóai lạc trong khóai lạc.
12/. Lão tử: đam mê trong cái sanh, rồi thì đi đến già chết, kế bị luân hồi trở lại nữa.
(đến đây là nhơn duyên đời tới)
Nhà học Phật, luôn quán chiếu trừ diệt những nhơn duyên bắt đầu từ vô minh cho đến lão tử
(quán hòan diệt).
1/. Diệt vô minh mê muội
2/. Thời diệt được cái hành, làm dữ từ trong lòng, gây nên tội lỗi.
3/. Thời diệt được cái thức, không nhận rằng đi đầu thai là hạnh phúc.
4/. Thời diệt được cái danh sắc, khỏi nhập vào bụng mẹ mà tượng hình
5/. Thời diệt được lục nhập, khỏi sanh ra lục căn.
6/. Thời diệt được cái ác, không còn cảm động đòi ẩm bồng đòi bú.
7/. Thời diệt được cái thọ cảm, không còn thất tình, không còn ham muốn ăn ngon mặc tốt.
8/. Thời diệt được cái ái, không còn yêu mến, mơ tưởng có vợ có chồng
9/. Thời diệt được cái thủ, không còn ham mê tình dục, tài sản.
10/. Thời diệt được cái hữu, không còn lo cho sự sống không bền bĩ nữa.
11/. Thời diệt được cái sanh, không còn muốn sanh ra nữa để chịu khổ.
12/. Thời diệt được cái lão tử, khỏi lo già yếu, vượt khỏi sanh tử luân hồi.
Diệt xong, mười hai nhơn duyên như trên, liền trở nên minh giác, đắc đạo. Pháp thập nhị nhơn duyên do Phật thuyết tức là pháp tu của bậc Bích Chi Phật thừa. Diệt tận mười hai nhơn duyên, thì thành Phật Bích Chi (Duyên Giác, Độc Giác).
Pháp Thập nhị nhơn duyên cũng là pháp tu chung cho các bậc, bốn thừa trong Đạo Phật.
Hạng thấp, bậc Thinh văn thừa, nhờ quán Thập nhị nhơn duyên mà đắc quả A la hán. Nhưng hàng đắc đạo nầy chưa thấy Phật tánh.
Hạng vừa, bậc Duyên giác thừa, nhờ quán Thập nhi nhơn duyên mà đắc quả Duyên Giác (Bích Chi Phật). Hàng đắc đạo nầy cũng chưa thấy tánh.
Hạng cao, bậc Bồ tát thừa, nhờ quán Thập nhị nhơn duyên mà đắc quả Thập Trụ Bồ tát. Hàng đắc đạo nầy thấy Phật tánh nơi mình, nhưng thấy chưa tỏ rõ.
Hạnh cao hơn hết, bậc Phật thừa (nhất thừa) nhờ quán Thập nhị nhơn duyên mà đắc quả chánh giác, quả Phật. Hàng đắc đạo nầy thấy Phật tánh một cách tỏ rõ hòan tòan.
Giáo pháp Thập nhị nhơn duyên rất sâu xa, mầu nhiệm, là giáo pháp bất sanh bất diệt, lên tới bậc thượng thượng thì thấy rằng mình vốn chẳng trừ diệt một nhơn duyên nào trong thập nhị nhơn duyên. Thật ra, Thập nhị nhơn duyên là chẳng sanh chẳng diệt, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng một chẳng hai, chẳng đến chẳng đi, chẳng phải nhơn chẳng phải quả.
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, quyển 27 có giải Thập nhị nhơn duyên như dưới đây:
1/. Phiền não đời quá khứ kêu là vô minh
2/. Nghiệp đời quá khứ, kêu là hành (hạnh)
3/. Mới vừa thọ thai trong đời hiện tại, kêu là thức.
4/. Vào thai năm phần, bốn căn chưa đủ, kêu là danh sắc
5/. Bốn căn trọn đủ, nhưng chưa ra khỏi thai bào, kêu là sáu nhập (lục nhập)
6/. Chưa phân biệt được những cái khổ đối với lục căn, đó kêu là xúc
7/. Lúc bấy giờ nhiễm qua một phần của ái, sắp bước vào đời cảm chịu những khổ vui kêu là thọ.
8/. Quen gần năm dục, đó kêu là ái.
9/. Tham cầu trong ngòai, kêu là thủ.
10/. Về việc trong và ngòai khởi thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp đó kêu là hữu.
11/. Cái thức đời hiện tại, kêu là sanh đời vị lai.
12/. Những cái danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, đời hiện tại, kêu là lão bệnh tử đời vị lai.
Thập nhi nhơn duyên là mặt mày từ vô thỉ đến nay luôn đi đôi với đời sống của chúng sanh và con người, đấy là những mắc xích kết thành một chuổi thời gian nhứt kỳ (dài, chẳng hạn là 100 năm) hay sát na (trong một niệm) của đời người, kiếp người. Người tu khi hiểu được sự giả lập của hệ thống nhân sinh quan như trên thì biết rõ thân tâm nầy đều là không tự tánh, không tự có chỉ là duyên hợp huyển có mà thôi, từ đó không bị ô nhiễm trong cõi đời, không nhiễm tức là giải thóat mắc xích vô minh sanh tử.
Mô Phật! Chúng con thành tâm kính lạy Sư, chúng con tuy có đi chùa thì nhiều, cúng chùa, làm từ thiện nhiều, nhưng sự học tập kinh pháp thì ít. nay nhơn duyên lành được nghe Sư giảng giải giáo lý Phật học, chúng con như người đi giữa sa mạc cuộc đời mênh mông, may gặp được ốc đão, được có mạch nước, được có nước và được uống nước, giải cơn khát khao hóa giải những gút mắc tự xưa nay trong cuộc sống. Lòng chúng con cảm nhận sự an lạc, được nghe pháp thập nhi nhơn duyên tuy không đắc thánh, đắc Phật, nhưng chúng con được biết giáo pháp duyên sanh: "cái nầy sanh thì cái kia sanh, cái nầy đến thì cái kia đến, cái nầy có mặt thì cái kia có mặt…”. Vô minh có thì sanh tử có, không vô minh thì không sanh tử, không có những cái thủ, hữu thì không gây những bước thăng trầm trong hiện tại cũng như tương lai… có nhơn có quả, đấy là quy luật nhơn quả của giáo lý Phật Đà.
Trong cõi đời, không ai quyết định cho ai, mà chỉ có quy luật nhơn quả quyết định cho chúng sanh và con người mà thôi… nay chúng con đủ duyên lành, nghe được Sư giảng giải những “áo nghĩa” của chư Phật.
Một lần nữa, chúng con xin đê đầu đảnh lễ Sư.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA

24 . NGÀY THỨ HAI MƯƠI BỐN:
Giáo pháp Lục Độ Ba La Mật

Bạch Sư! Trong tất cả các pháp, giáo pháp của Phật thật sâu sắc, nhiệm mầu uyên áo, chúng sanh thật khó hiểu, như Phật tử chúng con ít hiểu lắm Sư ạ! Chúng con không có thì giờ để học hỏi những giáo pháp cao sâu. Tuy nhiên, chúng con có đọc sách Phật học Phổ Thông của Ngài Đại lão Hòa Thượng thượng Thiện hạ Hoa, nhưng vì mênh mông quá, chúng con học không kham. Nay xin Sư từ bi có phương pháp chỉ dạy cho chúng con dễ tiếp thu dễ hiểu?

* Lục độ, cũng kêu là lục Ba la mật, sáu độ đưa chúng sanh từ bến sanh tử khổ đau đến bến Niết Bàn an lạc. Pháp tu lục độ chỉ dạy phương pháp tu hành giải thóat những khổ đau từ muôn thuở, để đưa con người đến bến an vui, không còn bị trầm thống luân hồi quả báo nữa. Nhưng lục độ là pháp tu cao, dành cho hàng phát tâm bồ đề, nên gọi là “đại thừa Bồ tát đạo”.
Sáu độ (lục độ) là nền giáo lý đại hạnh của Bồ tát. Ai muốn tu mau thành Phật (ra khỏi sự trầm thống của thế gian) phải tu trì đủ sáu độ.
Sáu độ là:
1/. Tu bố thí để trừ tham lam keo lận.
2/. Tu trì giới trừ tà ác.
3/. Tu nhẫn nhục trừ sân nhuế, sân si, nóng giận
4/. Tu tinh tấn trừ giải đãi lười biếng
5/. Tu thiền định trừ tán lọan, động niệm, vọng niệm, mất bình tĩnh.
6/. Tu trí tuệ trừ ngu si đần độn, vô minh, tối tăm.
Bậc tu đại thừa Bồ tát có đủ những hạnh lành ấy, phải trải qua ba vô số kiếp tu hành phát tín tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, phát bồ đề tâm làm các Phật sự lớn, cho đến khi viên mãn đắc đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác để thành Phật. Bậc tu đại thừa Bồ tát còn phải tiếp tục tu thêm hạnh Phương tiện giúp cho mình có cơ sở vừa làm lợi ích cho chúng sanh. Rồi đến tu Nguyện ba la mật, Lực ba la mật, Trí ba la mật. Bốn hạnh lành cao viễn, nếu được hành trì đầy đủ thì người tu dù tại gia hay xuất gia cũng đều đắc quả Phật.
Lục độ Ba la mật gồm có:
Bố thí Ba-la-mật, tức là pháp môn tu hành bằng phương pháp bố thí, có công năng như một chiếc thuyền, đưa mình và người từ bờ mê lầm của chúng sinh sang bờ giác ngộ của chư Phật.
Bố là cùng khắp : thí là cho, là trao tặng. Bố thí là cho cùng khắp, cho tất cả mọi người, mọi vật, mọi nơi.
Ba-la-mật phiên âm tiếng Phạn Paramita. Trung Hoa dịch là "đáo bỉ ngạn” nghĩa là đến bờ kia.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

25 . NGÀY THỨ HAI MƯƠI LĂM:

1 . Bố Thí Ba-la-mật

Bố Thí Ba-la-mật gồm : Tài thí, pháp thí và vô úy thí.
1. Tài thí. Tài thí tức là đem tiền bạc, của cải, vật thực của mình ra cho. Tài thí có hai loại :
a) Nội tài: Là những vật quí báu nhất của mình như thân mạng, đời sống của mình.
Thí nội tài : hy sinh thân mạng để cứu vớt kẻ khác ra khỏi nguy nan.
Thí nội tài là một cử chỉ hy sinh cao đẹp nhất mà chỉ những người giàu lòng từ bi, bác ái mới làm được.
b) Ngoại tài. Ngoại tài là những vật thường dùng của mình như thức ăn đồ mặc, tiền bạc, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa... đem những vật ấy ra cho những người túng thiếu, nghèo khổ thì gọi là thí ngoại tài.
2. Pháp thí. Đem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy quí báu của Đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác; hoặc y theo giới luật của Phật tu hành thành thật để làm khuôn mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh đều là pháp thí.
3. Vô úy thí. Vô úy nghĩa là không sợ. Vô úy thí là làm cho người khác không sợ, hết sợ.
Muốn thực hành pháp môn này, hành giả trước tiên phải luyện cho mình một đức tính đừng sợ gì cả. Mà kẻ tu hành chân chính, hiểu rõ giáo lý của Phật, thì còn sợ nỗi gì? Tiền của, họ không tham lam cho nên không sợ mất; danh lợi, họ không màn, nên không sợ thiếu, sanh mạng, họ xem như giả tạm, nên không sợ chết. Do cái tâm lý đó mà cõi lòng họ luôn luôn không xao động, nét mặt họ luôn luôn bình tĩnh trước mọi sự đổi thay, gian nan nguy hiểm. Người tu hạnh thí vô úy sẵn sàng để nhảy xuống nước vớt người sắp chết chìm, nhảy vào lữa để cứu người sắp chết thiêu, xông vào đám cướp để cứu người lương thiện, đến gõ cửa công, để minh oan cho người vô tội...
Tóm lại, người tu hạnh Thí vô úy, hễ đi đến đâu thì đem đến đó một sự bình tĩnh, an vui cho mọi người và mọi vật.
Công đức của sự Bố thí Ba-la-mật
Pháp bố thí là cái nhân lành của quả phúc ở thế gian và xuất thế gian. Trong lục độ vạn hạnh, pháp bố thí đứng đầu, vì nó tương đối dễ làm hơn tất cả các pháp, mà công đức lại lợi lạc được cả đôi bên người nhận và kẻ cho:
1. Đối với người nhận. Người đời không ai là đầy đủ. Kẻ được phần này thì thiếu phần khác, kẻ được vật chất thì mất tinh thần, kẻ đầy đủ tinh thần thì thiếu thốn vật chất.
Kẻ đang thiếu thức ăn mà được ăn, kẻ đang thiếu mặc mà được mặc, kẻ đang đau xót mà được vỗ về, an ủi, kẻ đang lo sợ mà được đùm bọc che chở thì thật là may mắn sung sướng vô cùng. Trong một xã hội có được nhiều người giàu lòng từ bi bác ái, luôn luôn tìm cách giúp người, thì xã hội ấy chắc chắn sẽ được an vui thịnh đạt.
2. Đối với người cho. Sự bố thí đã đành là lợi lạc cho người nhận, những đối với người cho cũng không kém phần quý báu. Mỗi khi đem của cải ra cho, là hành giả có một dịp để chiến thắng lòng tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ và nới rộng lòng từ bi; mỗi khi hy sinh tánh mạng để cứu giúp người, là hành giả có dịp để thử thách lòng tham sống, sợ chết, và trau dồi đức tánh lợi tha, bình tĩnh. Mỗi khi cho mà không kể kẻ thân người thù, là hành giả có dịp để chiến đấu với ngã chấp ngã ái. Nếu hành giả thí pháp, thì đó là những cơ hội để mình tự nhắc nhở, ghi nhớ những lời đức Phật dạy.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.
26. NGÀY THỨ HAI MƯƠI SÁU:

2 . Trì Giới Ba-La-Mật

Trì Giới Ba-La-Mật
"Trì" là giữ giới chặt chẽ; "Giới" là những điều răn dạy, ngăn cấm, những qui luật mà đức Phật đã chế ra để hướng dẫn các đệ tử tại gia và xuất gia của Ngài. Vậy trì giới Ba-la-mật là pháp môn tu để đi đến bờ giác ngộ.
Thành Phần Của Giới Luật
Chúng ta có thể phân chia giới luật ra làm ba phần và hai cấp bậc :
Giới tại gia.
Giới xuất gia.
Giới Bồ Tát.
1. Giới tại gia.
Giới tại gia là những giới dành cho những người chưa xuất gia trong hàng Tiểu thừa, tức là những cận sự nam và cận sự nữ (cư sĩ tại gia). Những người này có thể thọ trì từ một đến năm giới (Ngũ Giới) hay Tám trai giới (bát quan trai giới).
2 . Giới xuất gia.
Xuất gia gồm có năm chúng : Sa-di, Sa-di-ni,Thức xoa ma-na, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni.
Sa di và Sa di ni phải giữ 10 giới.
Thức xoa Ma-na phải giữ 6 điều giới và tập 296 hạnh giới.
Tỳ kheo phải giữ 250 giới
Tỳ kheo ni phải giữ 348 giới.
3. Giới Bồ Tát.
Là giới mà Phật tử tại gia và xuất gia trong hàng đại thừa phải thọ trì, sau khi đã phát tâm Bồ đề tu Bồ Tát hạnh để mở rộng làm Phật sự và hóa độ chúng sinh.
Bồ Tát giới gồm có :
- Nhiếp luật nghi giới.
Người thọ trì "Nhiếp luật nghi giới" là người quyết giữ đúng mười hai giới trọng và bốn mươi tám giới khinh, nghĩa là quyết không làm một việc ác nào cả.
- Nhiếp thiện pháp giới.
Người thọ trì "nhiếp thiện pháp giới" là người quyết tâm làm tất cả các việc lành.
- Nhiêu ích hữu tình giới.
Người thọ trì giới này là người quyết tâm tu hạnh từ bi, hỷ xả, làm tất cả những điều lợi ích cho tất cả chúng sinh, không một loài nào mà chẳng hóa độ.
Công đức của sự Trì giới Ba-la-mật
Trì giới Ba-la-mật có một hiệu lực rất lớn cho việc tu hành của người Phật tử. Phật tử thọ trì giới luật nghiêm trang thanh tịnh thì lúc hiện tiền tâm được thanh thản an vui, không có gì phải ân hận. Trong kiếp vị lai, hành giả chắc chắn được chứng quả Bồ đề, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Khi hành giả trì giới được thanh tịnh, thì tâm từ bi ,hỷ xả bủa khắp. Hễ họ thấy kẻ nào làm hạnh tài thí, pháp thí cho ai, thì liền sanh tâm hoan hỷ tán thán công đức, như thế tức là người ấy được một phần công đức "tùy hỷ bố thí".
Hơn nữa, khi hành giả thành thật chuyên trì giới luật, thực hành theo đúng lời Phật dạy, làm gương mẫu cho quần sanh bắt chước, tức là đã thí pháp bằng thân giáo. Còn khi hành giả trì tụng giới luật cho nhập tâm thuần thục, cũng tức là thí pháp bằng khẩu giáo.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.
27 . NGÀY THỨ HAI MƯƠI BẢY:

3 . Nhẫn Nhục Ba-La-Mật

Nhẫn Nhục Ba-La-Mật
"Nhẫn" là nhịn, chịu đựng những cảnh trái mắt nghịch lòng. "Nhục" là điều sỉ nhục, điều xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình.
Nhẫn nhục Ba-la-mật là nhẫn nhục đến chỗ cùng tột không còn ai có thể nhẫn nhục hơn thế nữa.
Nhẫn Nhục Ba-la-mật gồm :
1. Thân nhẫn. Đối với nghịch cảnh như nắng mưa, nóng lạnh, đói khát, đau ốm, hoặc bị người đánh đập, hành hạ, làm bức não nơi thân, mình cũng cam chịu, không phàn nàn hay chống cự lại. Đây là sự chịu đựng về thể xác.
2. Khẩu nhẫn. Thân đã nhẫn chịu không chống lại người và miệng cũng không thốt ra những lời nguyền rủa độc ác, trước những lời mạ nhục chua cay, mắng nhiếc tồi tệ hay đánh dập tàn nhẫn.
3. Ý nhẫn. Nhẫn nhục cả trong tâm, không căm hờn, không oán giận, không nổi lên ý phản đối, những tư tưởng hắc ám để trả thù.
Trong ba thứ nhẫn này, "ý nhẫn" là khó nhất và quan trọng nhất.
Công đức của pháp Nhẫn nhục Ba-la-mật
Lửa sân hận chỉ có thể bị dập tắt bằng nước Nhẫn nhục Ba-la-mật. Không Nhẫn nhục thì gia đình ly tán, bạn hữu chia lìa, tớ thầy đoạn tuyệt, đồng bào xung đột, thế giới chiến tranh.
Có Nhẫn nhục thì gia đình sum họp, bạn hữu tương thân, tớ thầy trung tín, đồng bào đoàn kết, thế giới hòa bình. Riêng đối với bản thân, không Nhẫn nhục thì lữa giận thiêu đốt lòng mình và dục vọng hoành hành, sự nghiệp tiêu tan, mọi người xa lánh, đạo quả khó tròn.
Có Nhẫn nhục thì lòng từ chan chứa, thanh tịnh tràn lan, sự nghiệp dâng cao, người người quí trọng, đạo quả viên thành.
Cổ nhân có câu :
Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận.
Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu.
Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc.
Hưu hưu hưu, cái thể công danh bất tự do.
Nghĩa là:
- Nhẫn nhẫn nhẫn (thân nhẫn, miệng nhẫn, tâm nhẫn)
thì những điều trái chủ oan gia từ đây dứt hết.
- Xả, xả, xả (thân xả, miệng xả, tâm xả bỏ)
thì tất cả những thiên tai, ngàn họa thảy đều tiêu tan
- Nhịn nhịn nhịn (thân nín, miệng nín, tâm nín) thì cảnh giới
thần tiên vô hạn cũng do đây mà được.
- Thôi thôi thôi (thân thôi, miệng thôi, tâm đều thôi)
thì những công danh cái thế không có việc gì là không có được

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.
28 . NGÀY THỨ HAI MƯƠI TÁM:

Tinh Tấn Ba-La-Mật

Tinh Tấn Ba-La-Mật
"Tinh" là tinh chuyên một việc không có xen tạp. "Tấn" là tiến tới mãi mãi không dừng, không gián đoạn hay thối lui.
Tinh Tấn Ba-La-Mật gồm :
1. Tinh tấn ngăn các điều ác đừng sinh. Nghĩa là các điều ác, từ trước đến giờ mình chưa làm đến, thì từ nay về sau cũng phải tinh tấn đừng cho nó phát sinh.
2. Tinh tấn diệt các điều ác đã sinh. Nghĩa là các điều ác mà mình đã lỡ làm rồi, thì phải tinh tấn diệt trừ cho mau đừng cho nó tăng trưởng thêm nữa.
3. Tinh tấn làm cho các điều lành phát sinh. Nghĩa là từ trước đến nay có những điều lành ta chưa thực hiện được, thì nay ta phải tinh tấn để cho nó phát hiện ra trong hành động.
4. Tinh tấn làm cho các điều lành tăng trưởng. Nghĩa là các điều lành đã được phát sinh rồi, nay ta phải tinh tấn làm cho nó tăng trưởng hơn nữa.
Công đức của Tinh tấn Ba-la-mật
Trong tất cả sự nghiệp, vĩ đại ở đời, hay kết quả vẻ vang trong đạo, cái bí quyết duy nhất để thành công là pháp tinh tấn. Cho nên Đức Phật Thích Ca có dạy: "Hỡi các người, hãy tinh tấn lên để giải thoát". Người thọ trì Tam quy, tinh tấn giữ năm giới và làm các điều phước thiện, thì sẽ được sinh lại làm nhân đạo, phúc thọ song toàn. Người tinh tấn tu Thập thiện và tu Tứ thiền, Bát định, thì sẽ sinh về cõi trời Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Người thấy các cảnh khổ sinh lòng nhàm chán cảnh đời, quyết tâm dứt trừ các phiền não, tinh tấn tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, kết quả sẽ chứng được bốn quả Thanh Văn. Người quán thấy mười hai nhân duyên là nguồn gốc của nhiều kiếp sinh tử luân hồi, tinh tấn tu hành, quyết đoạn trừ mười hai nhân duyên, sẽ chứng quả Duyên Giác. Các vị Bồ Tát, xứng theo tự tánh vô tham của mình, tinh tấn tu pháp bố thí Ba-la-mật; xứng theo tự tánh vô sân, tinh tấn tu pháp nhẫn nhục Ba-la-mật; xứng theo tự tánh vô si, tinh tấn tu pháp Trì giới Ba-la-mật; xứng theo tự tánh tịch tịnh, tinh tấn tu pháp tu pháp Thiền định Ba-la-mật...
Tóm lại, các vị Bồ Tát trong khi tu, vì xứng với thể tánh chân tâm của mình mà tu pháp lục độ, không chấp ở nơi ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, không thấy mình, người, có năng sở, bỉ thử, thì khi nhân hạnh Bồ tát được viên mãn, sẽ thành quả Phật.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.
29 . NGÀY THỨ HAI MƯƠI CHÍN:

5 . Thiền Định Ba-La-Mật

Thiền Định Ba-La-Mật
Người tu hành muốn đến bờ giải thoát hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn tuệ. Trong bốn đô trước của lục độ mà chúng ta đã học, chỉ nói về tu phước. Trong hai độ cuối cùng là tu Thiền định và Trí tuệ.
Thiền định : Thiền dịch âm tiếng Phạn là Dhyàna, Định dịch ý tiếng Phạn Samàdhi. Trung Hoa dịch là Thiền na, tĩnh lự. Thiền và định đều là để tâm chuyên chú vào một đối tượng để đạt tới trạng thái tịch tĩnh, không tán loạn.
Các Loại Thiền định
Thiền định có thể gọi là một trạng thái của tâm lý, trạng thái ấy gọi là trạng thái Tĩnh lự. Song ở Dục giới, tâm lý không thể có được trạng thái ấy, vì nó chỉ phát hiện ở Sắc giới, và Vô sắc giới. Rõ hơn nữa là Thiền thuộc về Sắc giới và Định thuộc về Vô sắc giới. Ở mỗi giới, Thiền và định đều phân làm bốn cấp bậc từ thấp lên cao, cho nên có danh từ là Tứ thiền và Tứ định.
Tứ thiền và Tứ định này, tuy là kết quả của công phu tu tập Thiền định, hay gieo trồng thiện căn, nhưng cũng là chung cho cả Phật pháp và Thế gian pháp, cả thánh và phàm. Nói rõ hơn, là dù theo phương pháp đạo Phật hay phương pháp nào, nếu có công phu tu tập đều có thể đạt đến Tứ thiền và Tứ định, nhưng đây cũng chỉ là thế gian pháp mà thôi.
Còn nói về pháp Định của chư Phật, Bồ tát và A-la-hán thì khác. Đó là Thiền định thuộc Xuất thế gian pháp, không thể phát hiện trong phạm vi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới được. Muốn đạt đến trạng thái Tĩnh lự của các bậc ấy, người ta phải đạt đến sự thoát ly tam giới. Còn lẩn quẩn trong tam giới thì tâm ý chỉ có thể đạt đến Tứ định là cùng.
Muốn có được Tứ thiền và Tứ định, thì phải thoát ly và đoạn diệt phiền não ở Dục giới. Nhưng nếu muốn đạt các pháp Định vô lậu, thì phải diệt trừ tất cả các phiền não của Vô sắc giới. Thiền bao gồm :
1. Thế gian thiền.
Thiền này có hai loại: Căn bản vị thiền và Căn bản tịnh thiền. Căn bản vị thiền gồm có mười hai phẩm, phân làm ba: Tứ thiền, Tứ vô lượng và Tứ không.
Người phàm chán cảnh tán loạn của Dục giới thì tu Tứ thiền. Người muốn phước lớn thì tu Tứ vô lượng. Kẻ nhàm chán cảnh sắc giới chật hẹp thì tu Tứ không. Vì mười hai phẩm Thiền này có thể làm căn bản cho thiện pháp xuất thế gian, nên gọi là căn bản Thiền. Với lại, an trú trong mười hai phẩm ấy, người tu Thiền còn ưa thích cảm giác lạc thọ của Thiền, nên gọi là căn bản vị Thiền.
Căn bản vị thiền, phân làm hai: Lục diệu môn và Thập lục đắc thắng. Ai có tuệ tánh nhiều thì tu Lục diệu môn, kẻ nào có định tánh nhiều thì tu Thập lục đắc thắng. Những ai có tuệ tánh và định tánh đều nhau thì có thể tu cả hai loại. Vì người ta có thể căn cứ vào pháp Thiền này để phát sinh vô lậu trí, không phải chỉ thuần hữu lậu, như ở Căn bản vị thiền, nên gọi là căn bản tịnh thiền.
Tuy nhiên, cả hai loại đều chỉ là thế gian thiền mà thôi, vì trước thời Phật giáng thế, phép Thiền này đã có.
2. Xuất thế gian thiền.
Pháp thiền này là của bậc xuất thế. Có bốn thứ Thiền quán: Cửu tướng quán, Bát bối xả quán, Bát thắng xứ quán và Thập nhất thiết xứ quán. Tu bốn thiền quán này, tuy là lấy các pháp hữu vi làm đối tượng suy nghiệm, nhưng có thể đi đến kết quả ly dục, phát sinh vô lậu trí, nên gọi là Xuất thế gian thiền.
3. Xuất thế gian thượng thượng thiền.
Đây là pháp Thiền cao tột của các bậc đại nhân. Kinh Địa Trì có giải về chín môn đại thiền này như sau :
1. Tự tánh thiền : nghĩa là quán sát thật tướng của tự tâm, không cần lấy đối tượng ngoại cảnh.
2. Nhất thiết thiền : có công năng tự hành và hóa tha.
3. Nan thiền : môn Thiền gian nan, thâm diệu, khó tu.
4. Nhất thiết môn thiền : có nghĩa là tất cả các pháp Thiền định đều do môn (cửa) này mà phát xuất.
5. Thiện nhân thiền : môn Thiền của những chúng sanh có đại thiện căn cùng tu.
6. Nhất thiết hạnh thiền : bao nhiếp tất cả hạnh pháp của đại Thừa.
7. Trừ não thiền : có năng lực trừ diệt phiền não, khổ đau cho chúng sinh.
8. Thử thế tha thế lạc thiền : có năng lực làm cho chúng sinh an lạc trong hiện tại và tương lai.
9. Thanh tịnh tịnh thiền : có năng lực đoạn trừ hoàn toàn các hoặc nghiệp, và chứng được Tịnh báo đại Bồ đề. Đến môn Thiền này, tâm ý hoàn toàn thanh tịnh, vã lại cũng không còn thấy cái tướng thanh tịnh ấy nữa, nên gọi là Tịnh báo.
Công Năng Của Thiền định
Theo Bồ Tát hạnh, có thể tu tập Thiền định và đạt đến mười kết quả tốt đẹp sau đây:

1. Được an trụ trong pháp thức uy nghi. Tu Thiền định phải theo pháp thức mà hành trì, như vậy trải qua một thời gian khá lâu, thì ngũ căn được tịch tịnh, chánh định phát khởi, không cần có sự cố gắng mà vẫn được an trụ trong pháp thức oai nghi.
2. Được thực hành cảnh giới từ bi. Khi tu Thiền định, thì giữ được tâm từ bi, thương yêu chúng sinh, muốn cho tất cả được an ổn.
3. Không còn phiền não. Nhờ năng lực Thiền định mà các phiền não tham, sân, si, không còn phát sinh nữa.
4. Gìn giữ được các giác quan. Không cho sắc, thanh, hương, vị, xúc lay động.
5. Vui vẻ lạc thú. Xem Thiền định là một món ăn ngon hơn tất cả các món ăn khác trong thế gian.
6. Xa lìa được ái dục. Một khi tâm niệm đã lắng yên, ái dục không còn phát sinh và làm nhiễm trước được nữa.
7. Chứng được chân không, không bao giờ bị rơi vào chỗ chấp đoạn diệt hư vô.
8. Cởi mở được tất cả những dây trói buộc sự giải thoát.
9. Khai phát được trí tuệ vô lượng và an trú trong cảnh giới của chư Phật.
10. Đạt đến sự giải thoát thành thục, đến chỗ mà tất cả hoặc nghiệp không còn nhiễu lại được nữa.
Ngũ căn được tự tại, phiền não được dứt trừ, từ bi được mở rộng, trí tuệ được phát chiếu, cảnh giới giải thoát được phô bày ra trước mắt.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.
30 . NGÀY THỨ BA MƯƠI:

6 . Trí Tuệ Ba-La-Mật

Trí Tuệ Ba-La-Mật
Trí tuệ là gì ?
"Trí" phiên âm chữ phạn là Prãna; "Tuệ" phiên âm chữ Phạn là Bát nhã. "Trí" có nghĩa là quyết đoán; "Tuệ" có nghĩa là giản trạch, Tự điển Phật học Trung Hoa định nghĩa như sau: "Trí là biết Tục đế và Tuệ là thông hiểu Chân đế".
Cũng có thể nói :
Trí là thể tách sáng suốt trong sạch, Tuệ là cái diệu dụng xét soi tự tại. Trí tuệ Ba la mật là thể tách sáng suốt có khả năng soi sáng sự vật một cách thấu đáo tinh tường đến nơi đến chốn, không thể sai lầm được. Các Loại Trí Tuệ
Theo triết học Phật Giáo, khả năng nhận thức có hai loại: Hiện lượng và tỷ lượng.
1. Hiện lượng : Là sự nhận biết trực tiếp không cần qua trung gian suy luận. Hiện lượng lại chia làm hai :
Chân hiện lượng, là nhận thức trực tiếp mà đúng.
Tợ hiện lượng, Là nhận thức trực tiếp mà sai
2. Tỷ lượng : Là sự nhận biết qua trung gian suy luận. Tỷ lượng cũng có hai thứ:
Chân tỷ lượng, là lối hiểu biết bằng suy luận đúng đắn.
Tợ tỷ lượng, là lối hiểu biết mà suy luận mà sai lầm.
Hiện lượng của địa vị phàm phu rất kém cỏi và phần nhiều là tợ hiện lượng. Tỷ lượng của địa vị phàm phu lại còn kém cỏi hơn nữa và phần nhiều là tợ tỷ lượng. Đứng về phương diện tính chất, đạo Phật chia trí tuệ ra làm hai loại lớn là "Căn bản trí" và "Hậu đắc trí".
1. Căn bản trí : Giác tính minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn đã có sẵn, nhưng vì bị phiền não che lấp, nên chưa phát chiếu ra được. Có thể so sánh căn bản trí như là một chất kim khí quí báu (vàng, bạc) đang ở trong trạng thái khoáng chất lẫn lộn với đá (phiền não vô minh)
2. Hậu đắc trí: Trí tuệ có được nhờ công phu tu tập như trì giới, thiền định... Có thể so sánh Hậu đắc trí như chất kim khí (vàng, bạc) được lọc từ khoáng chất và không còn lẫn lộn với đất đá, bụi bặm nữa (phiền não, vô minh).
Theo Duy thức học, sau khi đạt đến địa vị Giác ngộ, nghĩa là có được "Hậu đắc trí", thì tám thức chuyển thành bốn trí:
Thức thứ tám, A-lại-da có tác dụng là chấp trì sanh mạng và chủng tử, được đạt đến địa vị vô lậu và biến thành “Đại viên cảnh trí”.
Thức thứ bảy, Mạt-na có tác dụng là chấp ngã, biến thành “Bình đẳng tánh trí”.
Thức thứ sáu, Ý thức có tác dụng là phân biệt, biến thành “Diệu quan sát trí”.
Năm thức cuối (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức) biến thành “Thành sở tác trí”.
Công năng của Trí tuệ
Trí tuệ khi đã đạt đến địa vị Giác ngộ (tám thức chuyển thành bốn trí) thì công năng, diệu dụng của nó rộng lớn vô cùng, không thể nói hết. Chúng ta có thể nêu lên ba công năng chính của trí tuệ như sau:
1. Dứt trừ phiền não : Phiền não là do mê lầm phát sinh. Khi trí tuệ đã có thì mê lầm phải mất, như khi ánh sáng phát ra thì bóng tối tất phải tan biến. Mê lầm đã mất thì phiền não tất không còn phát sinh nữa.
2. Chiếu sáng sự vật : Sự vật bị vô minh che khuất, như màn sương sớm che phủ cảnh vật, nay trí tuệ phát chiếu vào sự vật, chẳng khác gì khi ánh sáng mặt trời lên, thì màn sương tất phải tan biến, lúc bấy giờ thực tướng thực tánh của sự vật được lộ bày như thật.
3. Thể nhập chân lý : Khi bị vô minh phủ lấp, ngăn che thì người ta với người, ta với vật tưởng như riêng biệt, sai khác. Nay nhờ trí tuệ soi sáng, thấy rõ được tâm cảnh đều chơn không, nên thể nhập được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.
Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật cũng đã thiết tha khuyên các đệ tử phải trao dồi trí tuệ như sau: "Trí tuệ là chiếc thuyền kiên cố chở khỏi biển già, đau, chết; là ngọn đèn lớn chiếu sáng vô minh hắc ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gãy cây phiền não. Vậy các người phải lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập mà tự tăng ích cho trí tuệ mình". (Kinh Di Giáo).
Tóm lại, Đạo Phật là đạo từ bi, mà cũng là đạo giác ngộ. Từ bi thuộc về phước, giác ngộ thuộc về tuệ. Phước và Tuệ là giúp hành giả thẳng đến bờ giải thoát. Do đó, trong kinh thường nói: "Phước, Tuệ song tu mới thành ngôi Chánh giác". Trong sáu pháp Ba la mật, bố thí và nhẫn nhục thuộc về tu phước; thiền định và trí tuệ thuộc về tu tuệ; còn trì giới và tinh tấn là hai chất liệu có công dụng kiểm soát và đốc thúc cho việc tu phước và tuệ được thành tựu hoàn toàn.
Bố thí và nhẫn nhục thuộc về bi, thiền định và trí tuệ thuộc về Trí, còn trì giới và tinh tấn thuộc về Dũng. Một Phật tử hoàn toàn phải có đủ ba phương tiện Bi, Trí, Dũng mới mong đi đến bờ giác ngộ một cách thông suốt và nhanh chóng.
Mô Phật! Chúng con nghe Sư giảng giải về Lục Độ Ba La Mật thật rõ, chúng con xin học tập và học thuộc lòng, để áp dụng tu tập hằng ngày, nối chí quý Sư!

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN

31 . NGÀY THỨ BA MƯƠI MỐT:
Những công hạnh của Đại Bồ Tát

Bạch Sư! Chúng con được nghe Sư giảng về tứ đế, thập nhị nhơn duyên, Lục độ Ba la mật, nghe thì hiểu, nhưng thực hành thì khó, quý Sư ở trong Chùa thì tu dễ dàng là điều tự nhiên. Còn chúng con phải tu thật nhiều mới xứng đáng với giáo lý cao thượng của Phật. Chúng con phải tiến tu từ nhiều thế hệ, từ tín đồ Phật tử đến xuất gia, mà còn phải trải qua nhiều kiếp niệm Phật tu hành thì mới đắc quả Phật, quý sư dạy con như thế. Tuy nhiên trong quá trình học Phật tu nhơn, chúng con còn nghe quý sư giảng về những công hạnh của đại bồ tát (Thập ba la mật) tức là một pháp môn cao sâu hơn nữa, trong đó ngòai lục độ Ba la mật, còn phải tu tiếp tục bốn độ Ba la mật nữa. Xin Sư từ bi khai thị về bốn độ Ba la mật, chúng con nguyện tiếp thu lời dạy của Sư để học tập?

* Những pháp tu đại hạnh của Bồ tát Thập địa từ Sơ Hoan Hỷ Địa đến Pháp Vân Địa là pháp Ba la mật, còn gọi là Thập thắng hạnh, Thập độ, Thập đáo bỉ ngạn. Mười hạnh lành thù thắng mà bồ Tát phải tu tập để đạt đến Đại Niết Bàn.
Thập Ba la mật là:
Sáu Ba la mật, thêm bốn Ba la mật: Phương Tiện, Nguyện, Lực, Trí Ba la mật.
1/. Thí Ba la mật: có ba thứ bố thí là: tài thí, pháp thí và vô úy thí
2/. Giới Ba la mật: trì giới và thường tự xét.
3/. Nhẫn nhục Ba la mật: Nhẫn chịu sự bức hại
4/. Tinh tấn Ba la mật: Siêng năng tiến tu, không biếng trễ.
5/. Thiền Ba la mật: thu nhiếp lục căn, khiến thân tâm an định
6/. Bát nhã Ba la mật: mở trí tuệ chơn thật. Hiểu rõ thật tướng các pháp.
7/. Phương tiện Ba la mật: dùng các phương pháp gián tiếp khai phát trí tuệ.
8/. Nguyện Ba la mật: Thường giữ gìn nguyện tâm và thực hiện nguyện tâm ấy.
Theo bài giảng về Thập Ba la mật của HT Thích Giác Quang vào năm 2009 (Kỷ Sửu) thì Nguyện Ba la mật chính là pháp tu của Đức Tôn sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước (Tổ sư khai sơn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng), Nguyện cũng chính là tông chỉ “Phát nguyện niệm Phật” của pháp phái niệm Phật “Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng” . Trong đó có ba pháp tu chính là tông chỉ của Tịnh Độ Non Bồng, như sau:

* Một là pháp “Bá Nhựt Trì Danh niệm Phật”
* Hai là Lễ Bái niệm Phật
* Ba là phát nguyện niệm Phật

Ba môn trên được cô đọng trong quá trình giáo hóa pháp môn niệm Phật Tịnh Độ Tông của Đức Tôn Sư. Cho đến nay “Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng”, chư Liên hữu Tăng Ni, Phật Tử đều tinh tiến thực hiện Pháp môn tu.
Phát nguyện chính là nhân hạnh của Đức Tôn Sư trong quá trình gần năm mươi năm tu chứng liễu đạo pháp môn và truyền bá pháp môn (trích trong Tịnh Độ Giảng Lược của HT Thích Giác Quang biên sọan diễn giảng)
9/. Lực Ba la mật: Bồi dưỡng năng lực thực hành thiện hạnh, phân biệt chánh tà.
10/. Trí Ba la mật: Trí tuệ thấy biết rõ tất cả các pháp.

Các pháp trên (10 pháp) đều nhân nơi tâm bồ đề làm nhơn. Kinh Giải Thâm Mật, Phật dạy: “Lý do ngòai sáu ba la mật còn lập thêm bốn Ba la mật là vì Phương Tiện Ba La Mật trợ duyên cho Thí, Giới và Nhẫn nhục Ba la mật
Nguyện Ba la mật trợ duyên cho tinh tấn Ba la mật.
Lực Ba la mật trợ duyên cho thiền Ba la mật
Trí Ba la mật trợ duyên cho Bát nhà Ba la mật
Mười Ba la mật xuất xứ từ kinh Bản Sanh là: Đàn (người tu học hạnh bố thí), Thi (người tu phải giữ Giới nghiêm túc), Bát Nhã (người tu phải phát huy Trí Tuệ), Tỳ Lê Da (người tu giữ hạnh Tinh tấn), Sằn Đề (người tu phải Nhẫn nhục), Xả Thế (người tu phủ nhận thế gian và chính mình), Chân Thật (người tu không nói lời hư vọng làm tổn hại sự chân thật), Quyết Ý (người tu không dao động ý tứ của mình), Từ (người tu không vì lợi ích cho mình, vì tất cả hữu tình mà trụ trong từ tâm) và Xả (người tu không bị khổ vui mừng giận… làm dao động)
Thực hành mười công đức trên gọi là Ba la mật (thân tâm đều giải thóat).
Bên Mật Giáo: kết họp mười ngón tay với mười pháp Ba la mật, trong đó:
Bàn tay phải, tượng hình như sau: THÍ là ngón tay ÚT, GIỚI là ngón tay ÁP, NHẪN là ngón tay GIỮA, TINH TẤN là ngón tay TRỎ, THIỀN là ngón tay CÁI.
Bàn tay trái, tượng hình như sau: BÁT NHÃ là ngón tay ÚT, PHƯƠNG TIỆN là ngón tay ÁP, NGUYỆN là ngón tay GIỮA, LỰC là ngón tay TRỎ và TRÍ là ngón tay CÁI (trích từ diễn Phật Quang, HT Minh Cảnh biên sọan)
Thập Ba la mật trên đây, người tu Mật Tông dùng làm thủ ấn mà tu hành. Còn bên Hiển giáo thì phát nguyện thực hành chuyên tu, vừa tu vừa giúp giáo hóa chúng sanh khiến cho giải thóat nổi khổ niềm đau trong bến nước sanh tử luân hồi, chứng thánh vị Bồ Tát.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM

32 . NGÀY THỨ BA MƯƠI HAI:
Những hạnh lành của người con Phật
Hiếu đạo

Đang thuyết giảng về lịch trình tu chứng của các thừa, như: Tứ đế. Thập nhị nhơn duyên, Lục độ ba la mật thì đến ngày khai khóa lễ “Niệm Phật Bá Nhựt Trì Danh” (ngày mùng 8/8/Canh Dần (2010) tại Nhứt Nguyên Bửu Tự) thì có một Phật tử lên mạng diễn đàn phatgiaovnn viết thư hỏi đạo, nhờ giải đáp giúp cho gia đình hết khổ, hộ trì cho Phật tử được xuất gia. Chúng tôi phúc đáp nguyện vọng Phật tử tanhuy, nhằm phổ cập những ý tưởng công đức thể hiện hạnh lành xưa nay của Quan Âm Tu Viện đến Phật tử gần xa.

* Bạch Hòa Thượng Giác Quang! Con rất muốn xuất gia tu học theo Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, song do con có nguyện như vầy, mong Hòa Thượng giúp đỡ. Nhà con chỉ có mình là con trai, Mẹ thì không bình thường, nhưng cả hai đều có gia đình khác, có ngoại già yếu con muốn học được thành tài, để báo hiếu, có người kế lo cho gia đình, rồi sau đó mới xuất gia như vậy có là quá trễ không thưa Sư, làm thế nào để gia đình con bớt khổ được thưa Sư?
* Xuất gia là người có chí hướng cao cả, trong đời không vì sánh bằng vị Sa môn đạo hạnh của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Người xuất gia thì không còn gì ràng buộc, đây chính là cơ hội Phật tử cống hiến cho Phật Pháp và viên thành đạo nghiệp.
Tuy nhiên theo lời của Phật tử trình bày thì gia đình quá đơn chiếc: bố mẹ chỉ có một trai, mẹ không bình thường có gia đình khác, ngoại già… chắc chắn còn nữa, nhưng Phật tử không kê khai thêm, chẳng hạn như kinh tế gia đình hạn chế v.v… và v.v…
Ôi thôi thì biết bao nhiêu là khổ, khổ khổ mà. Đấy cũng chính là chơn lý chắc thật mà Đức Phật từng tuyên thuyết tại công viên Thành phố Lộc Uyển, ngài đã vạch mặt mày cho thấy mặt trái của vạn khổ đang áp đặt sự trầm thống lên chúng sanh trong đó có con người.
Tuy nhiên nhà Phật có thể giải quyết những khổ đau cho Phật tử, với những trường hợp như sau:
1/. Mẹ không bình thường thì Phật tử nuôi, Mẹ có gia đình khác theo Sư thì Phật tử vẫn phải nuôi, kể cả nuôi Ngọai. Nếu còn Bố thì phải phụng dưỡng luôn cả Bố… làm người con Phật dù có khổ đến mức độ nào đi nữa cũng phải phụng dưỡng các đấng sanh thành… đấy mới gọi là hiếu đạo của Nhà Phật.
2/. Mẹ đã không bình thường, ai mà thương yêu Mẹ nữa, chỉ có làm con mới thương và nuôi Mẹ mà thôi, ngọai già… vậy thì Phật tử cứ gởi Mẹ, Ngoại vào chùa, vào Tu viện, vào Liên Viện Tịnh Độ Quan Âm Tu Viện của Sư Bà Huệ Giác đấy. Đồng thời Phật tử cũng phát tín tâm xuất gia thì cũng chẳng có gì là trở ngại. Trường hợp nầy là cơ duyên Phật Pháp đã đến, chứ không phải như mọi người suy nghĩ “do nghèo mà vào chùa”. Đấy cũng chính là cách báo hiếu của người con Phật trong giai đọan mới.
3/. Trường hợp Phật tử có tài sản thì vừa đi học cho thành tài, vừa nuôi Mẹ, nuôi Ngoại, báo hiếu cho đến khi Mẹ, Ngọai qua đời rồi đi tu cũng không muộn, vì lẽ báo ân báo hiếu cũng chính là tu rồi đó. Báo ân báo hiếu là hạnh Phật.
Đức Phật dạy: “…trong nhà, nhà trên thờ Phật, nhà dưới thờ Cha Mẹ, Cha Mẹ chính là Phật nhà dưới đấy…”.
4/. Ba trường hợp trên, tâm ý bạn ở vào trường hợp nào cũng là Phật tử, cũng chính là người tu Phật đấy.
Người đời bảo: “đời nay hiếm có” như trên lắm! Nhưng với nhà Phật thì không hiếm, rất nhiều người thực hiện hạnh lành như thế!
Phật tử cố gắng niệm Phật, giữ vững tâm hồn làm con Phật là hạnh phúc nhất bạn ạ!

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.
33 . NGÀY THỨ BA MƯƠI BA:

Các ngày trì trai

Bạch Sư! Trong giáo pháp Nhà Phật thường dạy tín đồ tập ăn chay (trai), ăn chay mỗi tháng hai ngày, ăn chay mỗi tháng bốn ngày, ăn chay mỗi tháng sáu ngày, ăn chay mỗi tháng mười ngày, ăn ba tháng chay, nhẫn đến trường chay, ăn chay nằm đất, thế phát (phụng thờ ông bà cha mẹ qua đời ba năm) đấy là những hạnh lành của người Phật tử.
Tuy nhiên chúng con muốn biết ý nghĩa tại sao phải ăn chay (trai) mười ngày, mà chọn những ngày mùng 1,8,14,15,18,23,24,28,29 và 30, ý nghĩa mầu nhiệm đến như thế nào mà chúng con được quý Sư dạy ăn chay những ngày đó, mà không ăn những ngày khác, chẳng hạn vì nhu cầu sinh họat hằng ngày ở Mỹ, nhiều nhà Phật tử ăn chay mỗi tháng mười ngày, nhưng ăn từ ngày mùng một đến mùng mười… Xin Sư từ bi chỉ dạy?

* Ăn chay (trai) là ăn uống những thức ăn thuộc về thực vật trong sạch, tinh khiết, những ngày mà tín đồ Phật tử được quý Sư, Thầy khuyên ăn chay là những ngày lành giờ tốt. Theo kinh Đại Minh Tam Tạng pháp số ghi, thì những ngày nầy Phật Thánh giáng lâm (trích từ điễn Phật Quang, HT Minh Cảnh biên sọan). Sau đây Sư sẽ cố gắng giảng giải cho Phật tử tiếp thu tu học.
Trong kinh Địa Tạng, phẩm Như Lai tán thán, Đức Phật dạy: Vào mười ngày nầy gom tập các tội, quyết định nặng nhẹ, mọi cử chỉ động niệm của chúng sanh trong cõi ta bà đều là nghiệp, đều là tội. Nếu vào mười ngày chay (trai) mà những người con muốn tu hạnh hiếu đạo thì nên đối trước các tượng Hiền thánh, chư Phật, Bồ tát đọc tụng kinh nầy một biến thì trong khoãng một trăm do tuần, bốn phía đông tây nam bắc không có các tai nạn, người già trẻ đang ở trong nhà khi ấy, trong trăm nghìn năm ở đời hiện tại cũng như vị lai được nương công đức lễ lạy Hiền thánh, chư Phật, Bồ tát mà xa lìa hẳn lục đạo tam đồ.
Kinh Đại Minh Tam Tạng Pháp Số ghi, trong mười ngày chay (trai), thì:
Ngày mùng Một có Thái tử của Tứ Thiên Vương xuống trần, nên niệm danh hiệu Đức Phật Định quang.
Ngày mùng Tám có thần Ma Hê Thủ La Thiên Vương xuống trần, nên niệm danh hiệu Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Ngày Mười Bốn có thần Ma Hê Thủ La Thiên Vương xuống trần, nên niệm danh hiệu nghìn Phật trong kiếp Hiền (hiện tại).
Ngày Mười Lăm (rằm) Thái tử của Tứ Thiên Vương xuống trần, nên niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà
Ngày Mười Tám, sứ giả Thái tử của Tứ Thiên Vương xuống trần, nên niệm danh hiệu Bồ tát Địa Tạng.
Ngày Hai Mươi Ba, Ma Hê Thủ La Thiên Vương xuống trần nên niệm danh hiệu Bồ Tát Đại Thế Chí.
Ngày Hai Mươi Bốn, Thái tử của Tứ thiên Vương xuống trần, nên niệm danh hiệu Bồ Tát Quan Thế Âm.
Ngày Hai Mươi Tám, sứ giả của Tứ Thiên Vương xuống trần, nên niệm danh hiệu Lô Xá Na.
Ngày Hai Mươi Chín Ma Hê Thủ La Thiên Vương xuống trần, nên niệm danh hiệu Bồ Tát Dược Vương.
Ngày Ba Mươi sứ giả của Tứ Thiên Vương xuống trần, nên niệm danh hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni.

Cuối đời nhà Đường bên Trung Quốc, từ quan đến dân thực hành pháp Thập Trai nầy. Ở Việt Nam hiện nay việc ăn chay (trai) thuộc của Phật Giáo hiện nay rất được tín ngưỡng, cách ăn uống thực vật, không ăn lòai động vật cũng được phổ cập sâu rộng trong quảng đại quần chúng. Vào những ngày Ba Mươi, Mùng Một, Mười Bốn, Rằm, người dân trên cả nước dù có đạo Phật hay Lương đạo, hoặc không có đạo, trừ người theo Thiên Chúa, Tin Lành, còn lại thì ăn chay. Thật rất có ích lợi cho bản thân.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

34 . NGÀY THỨ BA MƯƠI BỐN:

Tiết độ
(Những liều thuốc quý)

Chúng con có nhơn duyên lành được nghe thuyết pháp học Giáo lý Phật học tại Quan Âm Tu Viện, do Đức Thầy, Sư Hòa Thượng, Ni sư Kim Sơn, Sư cô Hương Nhũ giảng dạy từ 25 năm qua.
Trong quá trình Học Phật Pháp, có lần cách đây sáu năm chúng con được nghe Ni Sư Kim Sơn giảng bài “Những liều thuốc quý” nhưng chưa hiểu và học thuộc; nay nhớ lại những âm vang của bài pháp, chúng con cảm thấy hoan hỉ, năng lực tu tự nhiên tiến triển, bài pháp rất ngắn nhưng rất có lực cho hàng cư sĩ, nhất là những vị lớn tuổi nhưng cũng rất ích lợi cho giới Phật tử trẻ.
Tuy nhiên, chỉ có việc hôm nay chúng con vì bận rộn gia duyên lo làm ăn, gánh vác gia đình nên quên mất bài pháp, có nhớ cũng chỉ nhớ man mán, lộn xộn quá! Xin Sư từ bi giảng giải cho chúng con được học thuộc lòng qua quyển sách nầy?

Vâng! Bài pháp với nhan đề là “Những liều thuốc quý”, cũng gọi những điều thiện, dành cho Cư sĩ Phật tử tại gia áp dụng thực hành cụ thể rất có kết quả.
Chỉ có điều xuất xứ của bài pháp nầy nằm trong quyển sách Ngọc Lịch Minh Kinh ở triều đại Nhà Tống, thuộc Thần đạo. Tuy nhiên Kinh nầy chuyên giảng về đạo đức trong đó có đạo Phật, đạo đức làm người, đậm nét tín ngưỡng trong dân gian nước Trung Hoa cổ. Do vậy nên có ảnh hưởng đến người tu Phật rất lớn, khiến cho chư Tăng Ni phải học thuộc để giảng cho Phật tử. Bài “Những liều thuốc quý” Sư được gặp và xem nhiều lần:
Lần thứ nhất vào ngày 15/01/Quý Mão (1963), lúc Sư mới thọ Sa Di giới, theo học Phật tại Phật học đường Tây Phương Bồng Đão và cư trú tại Quan Âm Phật Tự (Hang Mẹ), núi Dinh, Sư có nhơn duyên được đọc quyển sách Phật bằng văn vần nhan đề “Pháp Kệ phá mê” do Pháp Sư Thích Giác Nhiên, Trưởng giáo đòan bốn chủ biên, do Đại Đức Giác Xuất trao tặng, trong đó có bài “Những Liều thuốc quý”.
Lần thứ hai vào ngày 15/7/Đinh Mùi (1967), khi tham dự Đại hội lần thứ nhất thành lập môn phái Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng và Giáo Đòan Du Tăng Khất Sĩ Non Bồng tại Quan Âm Tu Viện, Biên Hòa, Sư cũng được nghe Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước (Mẫu Trầu) trong lúc thuyết pháp, có trùng tuyên bài “Những liều thuốc quý” cho Tăng Ni, Phật tử cùng nghe.
Lần thứ ba vào ngày 15/7/Bính Ngọ (1966), sau khi thọ Tỳ kheo giới tại Liên Tông Tự, Trung Ương Tịnh Độ Tông (Saigon, nay là Tp.Hồ Chí Minh), Sư cùng giáo đòan Du Tăng Khất Sĩ Non Bồng 45 vị Sư Tỳ kheo đến Tịnh xá Trung Tâm xin đảnh lễ Ngài Pháp sư Giác Nhiên; lúc bấy giờ Pháp sư rất hoan hỉ cho đảnh lễ; sau khi lễ xong Pháp sư tặng Kinh, sách Phật trong đó Sư được Pháp sư tặng bộ Chơn Lý Đại Đồng (bộ 2 quyển, bìa cứng màu đỏ, có in pháp danh của Pháp sư) và quyển “Pháp Kệ phá mê”, trong đó cũng có bài “Những liều thuốc quý”, bộ Chơn Lý và quyển sách nhỏ đó ngày nay vẫn còn lưu trử tại Tịnh thất Bảo Tịnh, thuộc Quan Âm Tu Viện.
Lần thứ tư vào ngày 30/9/2010 nhân có duyên lành xem được “Những liều thuốc quý” trên trang website của Đạo Phật Khất Sĩ, bài được đưa vào trong sách của Pháp sư Giác Nhiên, nhan đề là :”Tư Tưởng siêu nhân”.
Nay quý Phật tử muốn tham học, Sư sẽ vì các vị mà trùng tuyên đúng nguyên văn bài văn (gọi cho đúng là “bài văn” không phải “bài pháp”, nhưng vì giảng cho Phật tử nghe nên tạm gọi “bài pháp”), có cả chữ Hán và dịch ra Việt nhưng cũng không có tác giả; nhưng bài nầy nằm trong quyển sách Ngọc Lịch Minh Kinh, của Đại sư Đạm Si đời Tống, viếng núi được một vị ẩn sĩ thuyết giảng cho ghi lại.
Bài văn nhan đề là:
”Văn Đề Bá Tự Minh (Ghi Trăm Chữ Dạy Đời, trong sách Hồi Dương Nhơn Quả, Ngọc Lịch Minh Kinh)
Chữ Hán:
Quá dục tinh thần sáng
Dạ tư khí huyết suy
Thiểu bôi bất loạn tánh
Nhẫn khí miễn thương tài
Quí tự tân cần đắc
Phú tùng kiệm ước lai
Ôn nhu chung hữu ích
Cường bạo tất chiêu tai
Thuận xử chơn quân tử
Khiêu toa thị họa tai
Am trung hưu sử tiễn
Quai lý phóng ta ngai
Dượng tánh nghi tu thiện
Khi tâm mạt ngật trai
Nha môn hưu xuất nhập
Hương đản yểu hòa hài
An phận thân vô nhục
Nhàn phi khẩu vật khai
Thế nhơn y thứ khuyến
Nạn thối phước tin hồi.
Việt dịch:
Dục ít tinh thần khỏe
Lo nhiều khí huyết phai
Vài (không) chung không (nào) lọan tánh
Một nhịn khỏi hao tài
Sang tại siêng năng, đổ.
Giàu nhờ tiện tặn dai
Dịu mềm sau có ích
Hung dũ sẽ mang tai
Khéo xử nên quân tử
Xui mưu lắm họa thay
Chốn thầm đừng bắn lén
Cảnh nghịch giả ngây hoài
Tánh tốt gìn tam thiện
Lòng gian uổng thập trai.
Nha môn đừng kiện cáo
Làng xóm chớ chê bai.
Bổn phận nương cơ tạo
Thị phi lắp lỗ tai
Lời nầy ai giữ đặng
Nạn khỏi phước lâu dài.
Bài văn trên được ghi trong Ngọc Lịch Minh Kinh ở vào triều đại Nhà Tống, niên hiệu Tiên Thánh thứ Tám, năm Canh ngũ, ngày Trùng cửu, Thầy Đạm Si đi núi gặp được kinh Ngọc Lịch, gọi là Ngọc Lịch Minh Kinh.
Bài văn của Ngài Pháp Sư Giác Nhiên ghi lại trong quyển “Pháp kệ phá mê” lúc bấy giờ có khác, có lẽ do Pháp sư dịch thuật từ tiếng Hán ra Việt theo ý dịch giả chăng? Bài văn của Đức Tôn Sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước trùng tuyên cũng khác? Nhưng cả hai bài đều đầy đủ những pháp học làm lành lánh dữ cho giới Cư sĩ.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.
35 . NGÀY THỨ BA MƯƠI LĂM:

Tu tập hạnh lành của Bồ Tát

Bạch Sư! Chúng con đi học Phật pháp, thường nghe quý Sư giảng về bốn pháp nhiếp. Bốn pháp nhiếp là một cụm từ Phật học, khi nghe giảng cần học thuộc lòng, nhưng vì gia duyên bận buộc, chúng con đã xa rời các pháp đã học.Nay xin Sư từ bi giảng giải cho chúng con được học và để thực hành?

* Tứ nhiếp pháp là công hạnh lành của Bồ tát, phàm làm chư Tăng, chư Ni hay những vị Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều có đủ tâm niệm tứ nhiếp pháp, hoặc phát bồ để tâm tu tập hạnh tứ nhiếp pháp; tứ nhiếp pháp là pháp tu của những người phát tâm đại thừa. Tứ nhiếp pháp cũng là bốn pháp mà chư Phật và chư Bồ tát thường dùng, tùy dùng để nhiếp thọ tâm tánh chúng sanh, khiến cho họ thuần hòa, nhã nhặn gần gũi thân thích mình, kết bạn lành cùng chung tu, chung sống như gia đình ruột thịt; từ đó mình có cơ duyên sách tấn dạy đạo lý cho họ.
Tứ nhiếp pháp là:
1/. Bố thí nhiếp: Giúp cho chúng sanh có cuộc sống đầy đủ sung túc, an cư lạc nghiệp, chúng sanh ưa tài vật, thì mình cho tài vật, ưa pháp lý thì cho pháp lý.
2/. Ái ngữ nhiếp: Tùy căn tánh của chúng sanh mà nói cho khéo léo, thiện xảo, biện tài vô ngại để huấn du họ ra khỏi những nổi khổ niềm đau, khỏi những bức não trong cuộc đời, ra khỏi bến sanh tử luân hồi trong ba cõi.
3/. Lợi hành nhiếp: Làm tất cả việc lành bằng thân khẩu ý mà giúp ích cho chúng sanh. Chẳng hạn như thuyết pháp, viết lời Phật, viết sách Phật pháp, dịch kinh, cho người đói được no, người dốt nát được biết chữ, cho người nghèo được giàu, giúp cho họ thành đạt trong xã hội… cũng đều là lợi hành nhiếp. Nhất là đưa họ vào Phật đạo, biết phát tâm bồ đề mà tiến tu giải thóat.
4/. Đồng sự nhiếp: dùng pháp nhãn, quán sát thấy căn tánh của chúng sanh, bèn tùy sở thích của họ mà phân thân thị hiện, sống chung làm Phật sự chung với họ (chư Tổ sư Tịnh độ hay phát nguyện câu: Thường vào trần lao mà làm Phật sự), giúp cho họ làm quen với đạo pháp, rồi bước vào Phật đạo.
Như trong kinh Pháp Hoa:”con ruột của Ông Trưởng Giả đi lưu lạc xa nhà, lâu quá nên quên nhà cửa, ruộng vườn, quên luôn ông Trưởng Giả là cha ruột của mình. Đến khi Ông Trưởng giả vì sắp quy tây, sợ không có người thừa kế sự nghiệp, nên cho sứ giả đi tìm và bắt “gả cùng tử” đem về, thì người ấy sợ quá mà ngất xỉu, tưởng là bị vua quan bắt giữ. Ai ngờ ông Trưởng Giả là cha ruột của gả muốn gả trở về nhà thừa kế sự nghiệp quản lý tài sản ông.
Chủ ý của ông Trưởng Giả là muốn giao tài sản cho con mình kế thừa; ông nghĩ: nếu muốn gần gũi “gả cùng tử”, phải thay đồ người làm công, mặc quần áo giống như nó, như mọi người, mới có cách gần nó được, làm quen với nó. Ông liền làm như vậy, cuối cùng ông gần được con ruột của mình; ông nói cho nó biết: ông là cha ruột, “gả cùng tử” là con ruột, tài sản nầy là của con, con nên học tập cách quản lý tài sản, lãnh đạo, hướng dẫn công nhân làm việc, thừa kế gia sản của cha ông…
Một thời gian sau “gả cùng tử” quen việc, thích gần gũi ông Trưởng giả; biết đây là cha của mình, tài sản nầy là của mình, bấy lâu nay vì lo rong chơi xa cách quê hương xứ sở, quên cha quên mẹ. Khi biết con đã nhìn mình, thật sự là con ruột của mình, “gả cùng tử” được phong trở thành “Trưởng tử”, ông Trưởng giả liền gọi con lại giao tòan bộ hồ sơ giấy tờ, công nhân, cơ xưởng vật chất cho con ruột mình quản lý…
Tinh thần đồng sự nhiếp, phải thực hiện giống như ông Trưởng Giả kia thì người đệ tử Phật mới gần gũi được chúng sanh, mới có cơ duyên khả năng khuyến khích họ học đạo, tìm đường giải thóat sanh tử luân hồi.
Hạnh đồng sự nhiếp của Đức Phật Thích Ca, là chính Ngài thị hiện sinh vào cung vua làm Hòang Thái tử của Hòang Đế Tịnh Phạn, Hòang Hậu Ma-Gia, lập gia đình với Công chúa Da Du Đà La, có con trai là La Hầu La, rồi từ bỏ cung son điện ngọc, xuất gia tu hành thành Phật. Do đó Ngài độ được chúng sanh trong cõi ta bà là vậy.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.
36 . NGÀY THỨ BA MƯƠI SÁU:

Giáo Lý Hạnh Quả

Bạch Sư! Chúng con nghe Sư giảng dạy, chúng con biết gần gũi chúng sanh thì có pháp tứ nhiếp. Pháp tứ nhiếp là dòng sữa ngọt của chư Phật, như tấm lòng bà mẹ, như sự khuyến nhũ của ông cha, thu phục nhân tâm như vị Sa môn khi đi vào đời độ chúng sanh, theo chúng con nghĩ đối với quý Sư cũng như vậy; nay vì chánh pháp, chúng con muốn hộ trì quý Sư độ đời, hoằng dương chánh pháp. Tuy nhiên, còn có pháp nào của Đức Phật, tâm tông của Chư Phật để quý Sư khi đi vào đời mà không vướng mắc phiền não trần lao? Ngưỡng mong Sư khai thị, chúng con thọ học?

* Có! Vào đời mà không tu chứng thì xem như con số không. Vào đời mà không có pháp lành để thể hiện thì chẳng làm gì được cho chúng sanh, thêm vào đó ma vương lẫy lừng phái họai chánh pháp; ngay cả thân mình lo cũng không xong, tâm mình không rảnh rang, làm gì rảnh tay lo cho mọi người.
Tu tập công hạnh chư lịch đại Bồ tát, chúng ta mới đến Đức Phật. Đi vào đời mà không lập hạnh Bồ tát thì không thể giáo hóa chúng sanh, không căn cứ vào kinh luật Phật thì không thể thực hành theo chánh đạo, không biết đường hướng phương pháp “dạy đạo” mà dẫn đạo cho mọi người thật rất sai lầm. Không nên đem tây nói đông, đem đông nói tây, không nên truyền đạt những phương pháp tu không thực tế cho Phật tử, khiến cho họ hoang mang.
Ví như gần đây có một vị thầy hướng dẫn các liên hữu, câu “ngọai giáo biệt truyền bất lập văn tự”… câu pháp nầy là của Tổ sư Thiền tông bên Trung Hoa; lời Phật Pháp của người xưa, của Tổ sư, lập lại để giảng giải cho Phật tử nghe thì cũng rất quý báu; nhưng với câu nầy thì bên Tông sử dụng dạy cho các Thiền sinh, bên Giáo không nên truyền đạt cho liên hữu tu Tịnh độ, khiến cho họ bị mất lập trường phương hướng tông chỉ mình đang tu học?
Người tu không có học và hành trì giới đinh tuệ, thì không xứng đáng với mọi người, không đắc đạo… xem như lừa dối chúng sanh, không phải Sa môn, Đại Sa môn của Đức Phật Thích Ca, giáo pháp ấy là giáo, lý, hạnh, quả.
1/. Giáo (phép dạy) là tiếng nói câu văn, lý kinh phá sự vô minh phiền não của chư Phật ba đời đã tuyên thuyết. Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, đừng đem cái không biết mà giáo hóa Phật tử thật rất tai hại.
2/. Lý (pháp lý) phải căn cứ vào kinh pháp, lý kinh mà giáo hóa chúng sanh mới hiệu quả. Phải có học giáo lý mới lên diễn đàn thuyết pháp.
3/. Hạnh (pháp tu) y theo lời Phật dạy mà tu giới, định tuệ thật nghiêm túc. Giới luật tinh nghiêm.
4/. Quả (pháp quả) là sự chứng quả dù là hữu vi hay vô vi, sau khi tu chứng giới, định, tuệ được viên mãn.

Tiếp theo phải sử dụng bốn phép tu của Bồ Tát:
1/. Bất xả bồ đề tâm (không bỏ bồ đề tâm)
2/. Bất xả thiện tri thức (không bò người thiện tri thức)
3/. Bất xả kham nhẫn, ái, lạc (chẳng bỏ các pháp kham nhẫn ái lạc)
4/. Bất xả a luyện nhã (không bỏ nơi tu hành tịch tịnh, rừng núi, đồng vắng)

Tiếp tục tu bốn pháp: tín, giải, hành, chứng, cũng là bốn pháp tứ y.
1/. Y pháp bất y nhơn
2/. Y nghĩa bất y ngữ
3/. Y trí, bất y thức
4/. Liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh

Tiếp tu lập hạnh làm cho:
1/. Thân an lạc
2/. Khẩu an lạc
3/. Ý an lạc.
4/. Thệ nguyện an lạc hạnh (là tông chỉ tu hành, là hạnh lành của Đức Tôn sư Tịnh Độ Non Bồng)
Giáo lý hạnh quả là công thức hành đạo của các Sa môn, Đại Sa môn đi vào đời cứu độ chúng sanh.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

37 . NGÀY THỨ BA MƯƠI BẢY:

Pháp môn tứ vô lượng tâm

Bạch Sư! Chúng con là Phật tử, nghe quý sư giảng giải nhiều về giáo lý Đức Phật, trong đó có tứ nhiếp pháp là hạnh tu cao quý của Bồ tát cũng như hàng thánh chúng đệ tử Phật, tứ chúng xuất gia tại gia cũng được học tập để tu, thì mới xứng đáng đệ tử Phật. Tuy nhiên trong quá trình nghe giảng pháp, chúng con còn được nghe quý Sư giảng về tứ vô lượng tâm, đã nghe nhưng chưa thấu triệt, pháp nầy là pháp tu của Bồ tát, chúng con sơ cơ có tu được không, xin Sư từ bi hoan hỉ chỉ khai thị cho chúng con thọ học?

* Bồ tát vào đời, ngòai các hạnh lành trên, còn phải phát lòng bồ đề tu tâm từ, tâm bi, tâm hỉ, tâm xả; chính bốn pháp nầy làm cho bồ tát thành tựu đại hạnh. Bốn đức vô lượng nầy Phật và Bồ tát thực hành để làm lợi ích, lợi lạc chúng sanh, độ nhất thiết khổ não vô lượng chúng sanh, những họan nạn cho vô lượng chúng sanh trong vô lượng thế giới. Đây là pháp tu của Bồ tát, những vị căn khí đại thừa, những vị phát lòng bồ đề đi theo Đức Phật, người Phật tử cũng tu được, pháp môn tứ vô lượng tâm, vì là vô lượng nên không có ngăn ngại chúng sanh, vì là vô biên nên người Phật tử luôn được khuyến giáo thực tập tu hành; pháp môn tứ vô lượng tâm lúc nào cũng được phổ cập trong quảng đại quần chúng.
Sau đây nói về pháp môn tứ vô lượng tâm:
Gọi từ bi hỉ xả; cũng gọi đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả.
TỪ là tâm lành, do tâm nầy mà làm lợi ích an lạc cho chúng sanh.
BI là tâm thương xót, do tâm nầy mà cứu khổ cứu nạn, những khổ đau oằn ọai cho chúng sanh.
HỈ là tâm vui, tự mình vui sướng khi thấy chúng sanh được an lạc.
XẢ là tâm hỉ xả, tha thứ cho người lỗi lầm, tự mình hi sinh để giúp cho chúng sanh được an lạc, không kể kẻ lạ người quen, kẻ thân người sơ.
Trước khi thành đạo, Phật và bồ tát từng tu hành tứ vô lượng tâm. Khi đắc đạo rồi, Phật và bồ tát vẫn thực hiện tứ vô lượng tâm để độ chúng sanh.
Người tu xuất gia có thực hiện tứ vô lượng tâm thì mới xứng đáng là Nhà sư phạm hạnh (hạnh thanh tịnh). Người tu pháp môn niệm Phật, người tín đồ Phật tử có tu gia hạnh thêm pháp môn tứ vô lượng tâm sẽ được vãng sanh ở bậc thượng phẩm thượng sanh, thành Phật.
Trong kinh Niết Bàn, quyền thứ 15, có dạy rằng:”Ai (tức là không luận bàn xuất gia hay tại gia) tu tâm Từ thì dứt tâm tham dục; ai tu tâm Bi thì dứt tâm sân; ai tu tâm Hỉ thì dứt tâm buồn; ai tu tâm Xả thì dứt được tâm tham dục và sân nhuế của chúng sanh.
Tứ vô lượng tâm làm tăng trưởng lục độ của Bồ Tát, đó là việc mà hạnh tu khác chẳng có sức làm.
Tứ vô lượng tâm có hai thứ: Thế gian tứ vô lượng tâm và xuất thế gian tứ vô lượng tâm. Bồ tát trước tu và đắc thế gian tứ vô lượng tâm, tức là làm xong những hạnh từ, bi, hỉ, xả giúp ích cho đời. Kế đó, bồ tát phát nguyện cầu thành Phật. Sau khi ấy, mới tu và đắc xuất thế gian tứ vô lượng tâm; tức là làm xong những việc từ bi hỉ xả độ thóat chúng sanh khổ não của các nhà tu hạnh Phật. Lúc bấy giờ gọi là đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả.
Người tu tứ vô lượng tâm, được hai vị trí nầy:
1/. Tu tâm từ, bi, hỉ thì được “cực ái nhứt thiết hữu địa” tức là địa vị của bậc Bồ tát thương tất cả chúng sanh như nhau, tỷ như con “một” của mình.
2/. Tu tâm xả, thì được “bình đẳng tự tại” tức là địa vị của bậc đắc lý không không và bình đẳng, chẳng còn phân biệt cha mẹ, vợ con, anh em thân tộc, oán thù, kẻ trung nhơn, cũng chẳng còn thấy ấm giới nhập, chúng sanh thọ mạng nữa.
Bậc Bồ tát đó như đi trong hư không, vô biên giới, không còn do dự khi độ chúng sanh. Khi giúp ai không còn suy nghĩ nữa.
Quý Phật tử nên tu tập, không khó lắm với pháp môn từ, bi, hỉ, xả thật khéo để giúp đời.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

PHẦN VII
Bồ tát đạo
&&&

CHƯƠNG THỨ MƯỜI SÁU

38 . NGÀY THỨ BA MƯƠI TÁM:
Hạnh lợi tha của người con Phật

Bạch Sư! Phật tử chúng con đi học tập tu tịnh độ, có nghe Thầy giảng dạy nói về bốn mươi lớp nhơn quả tướng; chúng con được nghe nhưng lúc bấy giờ ít quan tâm đến pháp tu cao viễn quá; đến khi được biết những quả lớp hạnh tu đó không phân biệt người xuất gia hay tại gia. Muốn tu hành đến quả vị rốt ráo phải trải qua bốn mươi nhơn hạnh tu, tức trải qua các lớp nhơn quả tướng rồi mới đến quả vị Đẳng giác (Bồ tát), rồi đến quả vị Diệu Giác (Phật).
Chúng con không ngờ bốn mươi lớp nhơn quả dành cho người xuất gia, tại gia cũng đều tu được. Xin Sư từ bi hoan hỉ vì chúng con mà giảng giải?

* Vâng! Trong thời gian Sư còn học Phật pháp, pháp môn niệm Phật giáo lý cơ bản của Tịnh Độ Tông (niên khóa 1971-1973) tại Quan Âm Tu Viện, cũng được học về bốn mươi hai lớp nhơn quả tướng dành cho liên hữu tu Tịnh độ. Pháp học dành cho cho liên hữu, tức là không luận dành cho người xuất gia hay tại gia cũng đều được tu học pháp môn. Lúc bấy giờ Sư được Thầy ban cho ba bộ kinh quan trọng là Bộ Đại Thừa Phương Quảng Hoa Nghiêm Kinh, Bộ Đại Bát Niết Bàn và Bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. Sư liền phát nguyện tụng đọc Kinh Niết Bàn, nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm, còn kinh Bát Nhã thì sau ngày đất nước hòa bình mới nghiên cứu đọc học.
Nay quý Phật tử thưa hỏi, Sư sẽ vì các vị mà trùng tuyên lời Phật dạy.
Thật ra thì pháp Phật có đại, có tiểu, tức tùy căn cơ trình độ của chúng sanh mà Phật thuyết, nhưng trong đó không luận giàu nghèo, sang hèn… hễ ai giác ngộ tu hành, muốn phát huy căn khí đại thừa, trau giồi trí tuệ đại thừa thì tiếp nhận tu tập. Chứ pháp Phật không dành riêng cho ai cả.
Bốn mươi hai lớp nhơn quả của người tu phát tâm lập hạnh đại thừa Bồ tát; thật ra theo Thiên Thai Trí Giả Đại sư và Tịnh Độ tông, thì có “năm mươi hai” lớp nhơn quả tướng, chớ không phải “bốn mươi”, gồm có mười Tín tâm khởi đầu của người đệ tử Phật, phát tâm tu hành. Tiếp đến là mười pháp Trụ, mười pháp Hạnh, mười pháp Hồi Hướng, gọi là Tam Hiền; mười pháp chứng Thánh gọi là Thập Thánh. Ngòai ra còn có hai bậc tu hành có đẳng cấp cao hơn nữa là: Đẳng Giác (Bồ tát) và Diệu Giác (Phật), cộng lại là năm mươi hai.
Lần lượt ngày hôm sau Sư sẽ dẫn giải…

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI BẢY

39 . NGÀY THỨ BA MƯƠI CHÍN:
Tín Tâm

Sư sẽ giảng giải về Tín Tâm là những hạnh lành gần nhất đối với Phật tử?

Tín tâm, mười tâm, trong các kinh gọi là thập tín tâm, hay thập tâm, cũng gọi là thập tín, tức là mười giai vị đầu tiên trong năm mươi hai giai vị tu hành của Bồ tát; mười tâm thuộc về tín vị, có công năng giúp cho hành giả thành tựu tín hạnh. Tín tâm rất phù họp với chư liên hữu vừa phát tâm tu hành pháp môn niệm Phật.
Kinh Hiền Thánh Danh Tự, kinh Bồ tát Anh lạc Bổn nghiệp có giảng mười thứ tâm như sau:
1/. Tín tâm:
Nhất tâm quyết định, tu hành đạt đến chổ thành tựu, người tu có một niềm tin vững vàng, một lòng tu hạnh niệm Phật hay thiền định, không mê tín, lầm lạc.
2/. Niệm tâm:
Hành giả tu pháp Lục niệm, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên, niệm Thân hư huyễn, niệm Sự giải thóat…
3/. Tinh tấn tâm:
Siêng năng nghe pháp, nghe giảng kinh Đại thừa, siêng năng tu tập thiệp thiện nghiệp niệm Phật không gián đọan.
4/. Định tâm:
Tâm an trú vào thiền định, an trú trong chánh niệm, xa lìa tất cả các pháp tà kiến, chỉ tu hành một pháp môn duy nhất mà mình đã quy y, hành giả nhất tâm tu tập, giữ gìn không cho các pháp có tính cách mê tín dị đoan xâm nhập nội tại.
5/. Huệ tâm:
Nghe pháp đại thừa Bồ tát tạng, không nghe pháp tiểu thừa hay các pháp tà kiến có tính cách mê tín dị đoan, thường tu tập tư duy quán sát, biết rõ các pháp là vô ngã, vô nhân các pháp hữu vi như mộng, như huyễn, như bào ảnh, như lộ, như điện chớp không thật, tự tính không tịch.
6/. Giới tâm:
Thọ trì luật nghi thanh tịnh của Bồ tát, hộ trì giới luật Phật, hoằng giới đem giới pháp đi vào cuộc đời mà truyền đạt cho những người tín tâm quy y Tam Bảo. Thường xuyên tu tập thân khẩu ý thanh tịnh, không phạm các lỗi lầm lớn nhỏ, nếu có phạm thì năng sám hối trừ diệt.
7/. Hồi hướng tâm:
Hồi hướng các thiện căn đã tu được tiến thú đến Bồ đề, không nguyện sinh vào các thế giới vật chất, có bao nhiêu công đức, phước báo đem hồi hướng khắp pháp giới chúng sanh, không vì riêng mình, bố thí tài sản không phân biệt thân sơ quen lạ, gần xa; luôn hồi hướng cầu tu chứng thực tế, không đắm trước công danh sự nghiệp, các pháp tướng thế gian.
8/. Hộ pháp tâm:
Phòng hộ tâm mình, không khởi phiền não, tu năm hạnh lành: mặc hộ, niệm hộ, trí hộ, thức tâm hộ và tha hộ. Nhìn thấy ai phá pháp, phá giới cân nhắc họ vào đạo, thấy ai hủy họai Tam Bảo liền phát tâm đứng ra bảo vệ, không tiếc thân mạng.
9/. Xả tâm:
Không tiếc thân mạng, tài sản, những gì có được đều buông xả, trải thân, trải tâm hộ trì Phật pháp.
10/. Nguyện tâm:
Lúc nào cũng tu tập các nguyện thanh tịnh. Làm việc gì đều ích lợi cho Phật Pháp, làm việc Phật Pháp phát nguyện bất thối chuyển, khi giúp ai việc gì, dù tán thân mất mạng cũng cũng không khiếp sợ, không bỏ qua.
Mười tâm trong kinh Hộ Quốc Nhân Vương là: tín tâm, tinh tấn tâm, niệm tâm, huệ tâm, định tâm, thí tâm, giới tâm, hộ tâm, nguyện tâm và hồi hướng tâm.
Mười tâm trong kinh Phạm Võng là: Xả tâm, giới tâm, nhẫn tâm, tấn tâm, định tâm, huệ tâm, nguyện tâm, hộ tâm, hỉ tâm và đảnh tâm.
Mười tâm trong kinh Lăng Nghiêm là: tín tâm trụ, niệm tâm trụ, tinh tấn tâm trụ, huệ tâm trụ, bất thối tâm trụ, hộ pháp tâm trụ, hồi hướng tâm trụ, giới tâm trụ, nguyện tâm trụ.
Đó là mười giai vị đầu tiên trong năm mươi hai giai vị Bồ tát của đại thừa Biệt giáo. Trong Tịnh độ Non bồng, Đức tôn sư thường thuyết giảng qua các bài kệ bút nói về niềm tin, tín tâm, đặc biệt là bài “Cái đẹp của người tu”, bài “Xưng tán công đức y bát”, các bài pháp nói về niệm tâm, niệm Phật, niệm Pháp, niệm công đức lành, lập hạnh lành trong lúc tu nhân.
Pháp tu Thập tín là pháp môn thuận lợi nhất và dễ dàng dành cho người tu tại gia hay xuất gia, những người phát tín tâm hộ trì Tam Bảo, tạo thành sức mạnh truyền trì chánh pháp trong các tông phái thiền, luật cũng như tông Tịnh độ và các môn phong pháp phái biệt truyền tại các Thiền viện, Tu viện của nhà Phật.
Pháp tu Thập tín đã có thuyết giảng tại khóa tu Phật thất chùa Pháp Thường (Nhơn Trạch), Quan Âm Tu Viện (Biên Hòa), chùa An Hòa (Thủ Thừa, Long an), và trang website Phatgiaovnn.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

40 . NGÀY THỨ BỐN MƯƠI:

Mười Pháp Trụ

Hôm nay, sẽ giảng về mười pháp trụ?
* Vì để tăng trưởng Phật trí, vì thâm nhập pháp giới, vì khéo bỏ kiếp chúng sanh, vì sở nhập vô ngại, vì sở hành vô thượng, vì được vô đẳng phương tiện, vì hội nhập nhứt thiết trí tánh, vì tất cả pháp, vì biết điều phục tất cả căn thân, vì hay thọ trì, diễn thuyết, đọc nói tất cả pháp trên, vị Chơn Phật tử (Bồ tát) phát tâm tu tập mười pháp Trụ của bậc căn khí Đại thừa để trở thành pháp khí của Phật Pháp. Thập trụ là giáo pháp của các bậc tu hành nương vào để an trụ. Theo kinh Hoa Nghiêm, bản dịch của Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Phật dạy: Chổ an trụ ấy từ thấp lên cao, được chia ra mười thứ bậc sau đây:

1 . Sơ Phát Tâm Trụ:
Lúc đầu mới phát tâm tu tập, vị Bồ tát (Chơn Phật Tử) quán tưởng thân tướng Phật đoan nghiêm xinh đẹp, có oai lực lớn, tứ tướng oai nghi nghiêm túc, thường xuyên quán chiếu túc căn, nhớ lại tiền kiếp; hoặc phát tâm tu hành được bậc Đạo Sư, Thầy Tổ thọ ký thành Phật, nghe Phật thuyết pháp, thấy chúng sanh chịu nhiều khổ đau nên Bồ tát ra tay cứu hộ khiến cho ra khỏi biển khổ.
Bậc tu Bồ tát Sơ phát tâm trụ thường hằng tinh tấn nghe thuyết pháp giảng kinh của Phật mà phát bồ đề tâm, cầu trí biết rõ tất cả pháp tướng thế gian và pháp tánh xuất thế gian, bậc tu nầy chắc chắn vượt qua khỏi biển sanh tử luân hồi.
Bậc tu Bồ tát Sơ phát tâm trụ luôn an trú trong chánh pháp, phát bồ đề tâm rộng lớn hay giúp người vượt khó, tự mình nghe hiểu chánh pháp mà thực hành chánh pháp, không bị tà kiến lay động chơn tâm.
2 . Trì địa trụ:
Chọn điểm tựa để nương náo, bậc Bồ Tát nầy đối với chúng sanh, phát mười thứ tâm làm lợi ích cho chúng sanh, khởi tâm đại bi thương xót cứu vớt chúng sanh, tâm tánh lúc nào cũng đỉnh đạt ổn định, hoan hỉ trước mọi người, tâm tánh an trú trong chánh pháp; lúc nào cũng thường nghĩ nhớ đến mọi người đang đau khổ khởi tâm cứu vớt chúng sanh ra khỏi ái dục, tham sân si, Bồ tát hay thực hành nhiếp thọ chúng sanh ác trở thành hiền lành, dữ hung trở thành hiền hậu, nhiếp thọ chúng sanh xa lìa tà kiến, hướng về chánh pháp, khởi tâm hộ trì chúng sanh tu hành dưới mọi hình thức xuất gia hay tại gia, thị hiện vào đời căn thân thanh tịnh, tốt đẹp, lục căn thông minh lanh lợi, học cao hiểu rộng, xứng đáng là bậc Thầy của Trời Người.
Người phát tâm thọ học các pháp thay thế Phật độ đời (sứ giả Như Lai), khi thành tựu, luôn khởi lòng đại bi thương tưởng chúng sanh, gặp Đức Phật ra đời, quy y Phật tu hành đắc quả từ A la hán đến Bích chi Phật, học hạnh Bồ Tát đại thừa hộ trì chánh pháp Phật, thị hiện thân căn có trí thông minh nghe và hiểu ngay, học một biết mười, bản lĩnh đứng trước số đông quần chúng thuyết giảng, hoặc là thuyết giảng ở quốc gia nầy hay có thể thuyết giảng ở quốc gia khác, mà không cần mọi người trùng tuyên, thông dịch lại. Bồ tát tu tập như thế, tinh tấn không bao giờ ngừng nghĩ, nêu gương hạnh lành cho tất cả chúng sanh.
3 . Tu hành trụ:
Gia công thực hành việc tu tập, bậc Bồ tát (Chơn Phật Tử) phát tâm tu pháp môn quán chiếu thân căn là vô thường, khổ, không, vô ngã. Quán chiếu các pháp không tự có, không đứng yên một chổ, biết rõ ràng các pháp thế gian là mộng huyễn, bào ảnh, như điện chớp, như sương mai; trong từng sát na thay đổi, đổi mới.
Các pháp thế gian không có cơ sở nhất định, không tồn tại vĩnh hằng, không bền chắc, luôn làm ô nhiễm thân tâm. Bồ tát tu tập quán chiếu như thế trong quá trình thực hành hạnh Phật độ chúng sanh.
Bồ tát Tu hành trụ, nhận thấy thế giới đất nước lữa gió, dục giới, sắc giới, vô sắc giới đều là huyển hóa, nên không bị nhiễm ô. Trí tuệ liền sanh do mình tu học, phát huy trí vô sư, không do người khác giáo hóa.
4 . Sanh quý trụ:
Phát tâm quy hướng chánh pháp, bồ tát phát tâm tu hạnh độ đời, vào đời gặp khó khăn không thối chuyển, khi muốn giúp chúng sanh nghèo khó, Bồ tát thị hiện vào nhà quyền quý cao sang có đủ phương tiện giúp chúng sanh, Bồ tát vì muốn độ chúng sanh giải thóat sanh tử mà sanh vào nhà Phật Pháp phát nguyện tu hành, lập hạnh, lành, giữ giới luật tinh nghiêm để có cơ sở cứu độ chúng sanh, Bồ tát phát tâm tu tuệ học để có phương tiện giúp chúng sanh giải thóat khổ đau phiền não như ý. Khi độ đời Bồ tát có niềm tin vững vàng, biết rõ nghiệp lực của chúng sanh, hóa giải những khó khăn cho chúng sanh giúp họ phục thiện, mau ra khỏi vòng lao lý tù tội, mà đến bến bờ vô vi an lạc.
Bồ tát sanh quý trụ, có đầy đủ lục thông, biết rõ đời quá khứ của mình như thế nào, đời vị lai đi đến đâu, quyết định đến quả vị rốt ráo, không lui sụt. Lúc nào cũng tinh tiến làm Phật sự, có đầy đủ thế lực quyền hạn cứu vớt chúng sanh, che chở chúng sanh khiến họ an lạc.
5 . Thế nào là Bồ tát Cụ túc Phương tiện trụ?
Nương theo chánh pháp dùng làm phương tiện mà hành đạo, bồ tát sanh vào thế gian có đủ căn lành, túc căn đầy đủ, có phương tiện khéo làm lợi ích cho mọi người, khi Bồ tát tu hành, dù ở chổ khắc khổ, vẫn làm lợi lạc cho chúng sanh, giúp chúng sanh thóat khỏi nạn nước lữa, sanh tử luân hồi. Làm cho chúng sanh khởi lòng tin Tam Bảo, an lạc trong thế giới Phật Pháp.
Trong lúc tu, Bồ tát có vô biên phương tiện độ sanh, tâm không bị nhiễm trước, mê lầm, dù ở chung trong quần chúng, nhưng tâm Bồ tát luôn giải thóat, không nhiễm ô vòng tục lụy.
6 . Thế nào là Bồ tát Chánh tâm trụ?
Tâm an trụ trong chánh niệm, trong lúc tu hành Bồ tát luôn khởi tâm thanh tịnh tin Phật, tín Pháp, tin Tăng; khi nghe bị chê bay có lời khen đều bất động, không buồn cũng không vui. Thường xuyên quán chiếu pháp giới có thành, trú, họai, không, sanh, trụ, dị, diệt; vì biết rõ như thế nên tâm hồn vững vàng, không thối chuyển.
Trong lúc tu hành bồ tát xóa bỏ mọi hình tướng, quán chiếu các tướng không sanh không diệt, là bình đẳng, không có tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ mệnh. Quán sát các pháp như mộng huyển, không thật; nên Bồ tát vào đời như đi trong hư không, chốn không người.
7 . Thế nào là Bồ tát Bất thối trụ?
Lòng không thối chuyển, người tu hạnh nầy tâm chí vững vàng như bức tường thành kiên cố, tâm chí vững vàng như trụ đồng, trong lúc tu hành, cũng như khi muốn giúp đỡ ai điều gì thì kiên quyết thực hiện cho bằng được, có chí quyết định.
Bồ tát thường khởi tâm xuất ly, gặp cảnh khổ trong khi tu hành, dù gặp Phật ra đời hay không gặp Phật, dù bị ngăn ngại trong lúc làm Phật sự, trong lúc tu hành, trong lúc giúp chúng sanh, Bồ tát cũng không thối chuyển. Tâm bồ tát rất cứng như kim cương, không vật nào làm hư bể nổi viên ngọc quý báu nhất trong đời.
8 . Thế nào là Bồ tát Đồng chơn trụ?
Thiết thật trong lành, tâm như gương sáng không bị vẫn đục, bồ tát tu hành, luôn giữ thân khẩu ý thanh tịnh, không bị lỗi, không bị sa đà vào ngũ dục, trái lại còn từ trong ngũ dục mà bước ra. Thân miệng ý lúc nào cũng tuôn trào pháp lành khiến cho chúng sanh hoan hỉ, trọn niềm tin. Lúc nào cũng tham cầu học Phật Pháp. Vào nhà chúng sanh, hay tùy theo ý niệm của chúng sanh mà hóa độ như Đức Quán Thế Âm hay thể hiện hạnh lành, trong từng pháp giới không bị trở ngại.
Vị Bồ tát đi vào đời, thấy tất cả pháp đều là Phật Pháp, thấy tất cả chúng sanh đều là Phật, thấy mọi người đều có tánh thiện, nên gần gũi với họ, khiền họ thân thiện, rồi dắt họ vào Phật đạo.
9 . Thế nào là Bồ tát Pháp vương tử trụ?
Dũng mãnh phi thường như vua các pháp, bồ tát tu cầu Phật đạo, dù ở bất cứ tình huống nào, cũng không bỏ Phật Pháp, không xa rời chánh pháp, thừa kế chánh pháp, không xa rời Đức Pháp Vương vô thượng, lập hạnh tu hành, ngày đêm tinh tiến thực hành hạnh lễ bái Như Lai, vào nhà Như Lai, tôn kính Như Lai, đảnh lễ Như Lai, nói pháp của Như Lai, đảnh lễ giáo pháp của Như Lai… nên gọi Pháp vương tử.
10 . Quán đảnh trụ:
Quán chiếu nơi đảnh đầu phát hiện ra hào quang, bồ tát đi vào đời bằng hạnh nguyện, tức là làm lợi lạc chúng sanh, dù tán thân mất mạng cũng không bỏ chánh pháp, tâm Bồ tát với Phật là một. Luôn uyển chuyển dòng pháp Phật đi vào đời, tùy duyên bất biến, bất biến mà tùy duyên khiến cho mọi người, mọi thời đại đều khởi niềm tin chánh pháp, khiến cho chánh pháp trường tồn trong đời dưới mọi hình thức.
Trên đây là mười pháp mà Bồ tát hay người con Phật an trú tu hành, làm cho ánh hào quang chánh pháp ngày càng trong sáng, muôn vạn chúng sanh nương nhờ. Đem ánh sáng Phật pháp đi đến đâu đều làm cho chúng sanh được an tâm, mở đèn sáng cho chúng sanh tiến đến nơi an trú Niết Bàn. Đây là giai đọan thứ nhất trong ba a tăng kỳ kiếp của liên hữu trên đường tu.
Mười pháp trụ của Bồ tát an trú trên theo sự giáo hóa của Thiên Thai Trí Giả thì thuộc vào bậc Bồ tát Tam Hiền.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

41 . NGÀY THỨ BỐN MƯƠI MỐT:

Mười hạnh lành của Bồ tát

Hôm nay nói về những hạnh lành của Bồ Tát?

* Theo kinh Hoa Nghiêm, bản dịch của Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh (PL 2509), Phật dạy: người tu tập trải qua giai đọan đầu và tiến lên xa hơn nữa trong pháp sáu độ (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ) và vạn hạnh tức là tu các hạnh khác nhau, trong đó có mười hạnh lành của Bồ tát: một là Hoan hỉ hạnh, hai là Nhiêu ích hạnh, ba là Vô vi nghịch hạnh, bốn là Vô khuất nhiễu hạnh, Năm là Vô si lọan hạnh, Sáu là Thiện hiện hạnh, bảy là Vô trước hạnh, tám là Nan đắc hạnh, chín là Thiện pháp hạnh, mười là Chơn thật hạnh.
Từ ngữ Bồ tát trong kinh Hoa Nghiêm gọi là Chơn Phật tử cũng gọi là người tu theo lý tưởng đại thừa; ở đây chúng ta gọi chung là người tu.
Người tu phát đại tâm học và làm theo hạnh lành của ba đời chư Phật (quá khứ, hiện tại, vi lai) mà tu hành. Thường làm các Phật sự có lợi ích cho đời, tâm trí của người tu không giải đãi, đọan trừ tất cả phiền não trong quá khứ cũng như hôm nay. Do thường thể hiện hạnh lành nên thường được chư thiên, hộ pháp vãng lai hộ trì, thành tựu các Phật sự thế gian và xuất thế gian. Nhà cửa của người tu theo pháp môn thập hạnh luôn trang nghiêm thanh tịnh, báo vật luôn xuất hiện trong nhà, những vật dụng quý báu nhất trong đời như kim cương, pha lê, xa cừ, trân châu, mã não (vật dụng quý báu tức là kinh luật luận, trí tuệ, hạnh lành của người tu) là những món đồ trang sức cho tự thân khiến cho thân tướng trang nghiêm rực rỡ.
1 . Hoan hỉ hạnh:
Vui vẻ tự nhiên, không có gì vướng bận tâm, người tu vì nhu cầu của mọi tầng lớp chúng sanh, xin thì được, muốn thì cho, nhất là trong nhu cầu cuộc sống, cần có sự tiến hóa đồng bộ, bồ tát phát nguyện giúp đỡ cho chúng sanh được có công ăn việc làm, giúp cho họ thành đạt. Tâm ý của Bồ tát xem tất cả chúng sanh như ruột thịt, thân bằng quyến thuộc; lúc nào cũng thi ân bất cầu báo. Bằng mọi giá Bồ tát làm lợi lạc chúng sanh, mà Bồ Tát phát nguyện học những hạnh lành của chư Phật. Xiển dương các công hạnh lành của chư Phật khiến cho chúng sanh, sanh lòng hoan hỉ, thóat khổ được vui.
Bồ tát tu Hoan hỉ hạnh, làm cho chúng sanh yêu thích mình, có tình cảm với mình, mà không cần phải là bà con quyến thuộc chi cả. Bồ tát thường thể hiện hạnh lành bố thí cho cả thân mình cho chúng sanh đói được no, lạnh được ấm, người cô độc được hạnh phúc, chúng sanh được sở cầu như ý.
2 . Nhiêu ích hạnh:
Làm cho nhiều người được lợi ích, như: giữ giới nghiêm túc, không ô nhiễm vật dục; những thức ăn đồ uống thế gian, thể hiện hạnh lành khổ hạnh ăn không cần ngon, mặc không cần đẹp, ngũ không cần ấm, miễn được có phương tiện làm lợi lạc chúng sanh. Trong lúc tu hành, đứng trước những tài sắc danh thực thụy không bị khuấy động, không bị nhiễm ô cả thân tâm. Xem ngũ dục là chướng đạo, sống đời sống tòan là Phật pháp. Chấm dứt những nổi khổ niềm đau cho chúng sanh, đem giới hạnh lành ban bố cho họ, khiến họ vào chánh pháp. Xóa tan những tín ngưỡng mê tín dị đoan. Bồ tát thường thị hiện giàu sang, đài các, phong lưu, làm người có nhiều trân bảo, ngọc ngà châu báu để giúp chúng sanh, khiến họ vào Phật đạo, nghiêm túc giữ gìn giới pháp, vui lòng hi sinh vì chánh pháp.
3 . Vô vi nghịch hạnh (vô nhuế hạnh):
Không để cho tâm vẫn đục, não loạn, nhẫn nhục khiêm nhường, thường thị hiện vào môi trường gia đình lễ giáo, không làm tổn hại chúng sanh, ẩn mình giúp chúng sanh khiến cho họ tinh tấn tu hành, thi ân bất cầu báo. Bồ tát trong lúc tu hành không thích khoe khoang, không làm chức việc, không thọ hưởng phước báo. Bồ tát thị hiện thuyết pháp, giúp chúng sanh giác ngộ hướng về Phật Pháp, trong lúc tu hành không tham cầu lợi dưỡng; vì vậy mà khiến cho những người có tâm làm tổn hại thanh danh bồ tát mà vẫn không hại được.
Bồ tát thường tu hạnh an trú chốn tịch tĩnh, nơi thanh vắng vô tịch, điều chế thân căn xa lìa ái dục. Nhập từ bi quán xem mọi người như quyến thuộc. Có tâm hộ trì cho chúng sanh thành đạt trên đường đời, biết quy y Tam Bảo, phát tâm trường chay niệm Phật không thối chuyển.
4 . Vô khuất nhiễu hạnh (vô tận hạnh):
Bồ tát tâm không cùng tận, không ranh giới, không chướng ngại, khuyến khích chúng sanh tinh tấn làm các việc lành, lánh xa điều ác. Gìn giữ giới luật nghiêm minh, thân khẩu ý thường thanh tịnh. Bồ tát hướng dẫn chúng sanh tu tập biết hổ thẹn bỏ những ác duyên, thể hiện lòng từ tốn, lòng bi nhổ tất cả gốc khổ, phiền não chúng sanh. Biết chúng sanh hay thích những gì, thường đáp ứng nguyện vọng của họ khiến họ vui lòng mà theo Phật Pháp. Bồ tát vào địa ngục chịu khổ thế cho chúng sanh, diễn dương vi diệu pháp, làm lợi lạc cho Đạo cho Đời, ích nước lợi dân, báo ân quốc vương thủy thổ, cổ xúy tinh thần hộ quốc an dân, khiến cho không còn chiến tranh, mang lại thanh bình trong thiên hạ.
5 . Ly si loạn hạnh:
Lìa xa sự si mê ám chướng; Bồ tát tu hạnh thiền định, niệm Phật, giữ chánh niệm, không tác lọan tà tâm, dù phải tán thân mất mạng không làm, không nói điều tà mị mà đến với chúng sanh; Bồ tát tu hạnh thà chịu nghèo khổ, không làm cho chúng sanh đi theo tà kiến, xa rời chánh pháp. Bồ tát tu tập khéo hiểu tất cả ngôn ngữ thế gian, làm thầy giáo giúp chúng sanh không còn dốt nát. Trong quá trình tu tập thiền định, thường quán chiếu thân là giả tạm, không mê lọan sắc pháp nhục dục, ra khỏi sanh tử luân hồi. Bồ tát siêng năng tinh tấn thuyết pháp ban bố pháp lành giúp chúng sanh xa lìa vô minh căn bổn, tự tại vô ngại. Vì muốn chấm dứt mê lầm của chúng sanh mà nói pháp niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên, giúp cho ra khỏi những pháp tà kiến, như: ngồi đồng, ngồi ghế, bói khoa xủ quẻ, lịch số tướng trạng, soi căn, xin phép làm ăn, dẫn dắt chúng sanh vào thế giới li mị vọng lượng (không thật), đoán mò vận mạng chúng sanh, làm cho họ mất bồ đề tâm không thấy được chánh pháp.
6 . Thiện hiện hạnh:
Bồ tát chuyên tu hạnh nghĩ và làm các việc thiện; điều phục tam nghiệp thanh tịnh, phát hết các tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng; thị hiện an trú trong chánh vị chơn như pháp tánh, hóa giải nghiệp báo chúng sanh, giúp cho mọi người ra khỏi những khổ đau do thân, khẩu, ý nghiệp gây nên. Thị hiện điềm lành, cát tường đến với chúng sanh, khiến họ vui vẻ mà tầm sư học đạo. Giúp cho chúng sanh tu hành đúng tông chỉ, có lập trường, biết rõ các tướng là phi tướng, các tướng là rỗng không, là huyển hóa, không tự tánh, là duyên hợp huyển có, nên không còn ô nhiễm, ra khỏi sanh tử khổ đau.
7 . Vô trước hạnh:
Tu hạnh không tham lam trước mọi vật, không đắm nhiễm, dùng tâm vô trước, chánh niệm mà hội nhập vô số thế giới, đi vào đời mà không nhiễm ô cuộc đời, từ đó mà Bồ tát rảnh thân, rảnh tâm giúp cho mọi người có đời sống ổn định hạnh phúc. Bồ tát tu hạnh lễ bái cúng dường vật thực, tài vật, báu vật cho Phật pháp, như cúng dường kinh điển, tu các hạnh lành của Phật, nhiếp thọ chúng sanh, khiến họ ra khỏi cố chấp mê lầm.
8 . Nan đắc hạnh (tôn trọng hạnh):
Bồ tát thành tựu căn lành khó được, làm những việc khó làm, nhẫn việc khó nhẫn, tu pháp khó tu, độ người khó độ; giúp cho chúng sanh tu hạnh nhẫn nại, thường xuyên nghe thuyết pháp, tham dự pháp hội, làm tòa cho Phật ngồi thuyết pháp. Thị hiện có oai đức lớn, có thế lực để có phương tiện mà giúp người thóat cảnh nạn tai. Bồ tát an trụ hạnh nan đắc, ở trong mỗi niệm có thể chuyển hóa vô số kiếp sanh tử mà chẳng bỏ đại nguyện. Bồ tát không trú Niết Bàn, cũng không ở bên bờ sanh tử, thệ độ chúng sanh khiến cho họ đến nơi an lạc.
9 . Thiện pháp hạnh:
Có đủ các pháp lành để trợ lực cho chúng sanh; hộ trì Tam bảo, nhiếp thọ chúng sanh; làm chổ dựa cho chúng sanh. Thường thị hiện nói pháp biện tài vô ngại, thị hiện người thông thái, học cao hiểu rộng mà nói pháp lành cho chúng sanh, giúp họ sanh trí tuệ, hoan hỉ phát tâm bồ đề hộ pháp cho đạo Phật tỏ sáng. Bồ tát thường khởi tâm từ, tâm bi, tâm hỉ, tâm xả hiện ra những hạnh lành chu biến khắp pháp giới khiến cho chúng sanh khởi lòng tin. Tùy theo sở thích của chúng sanh mà dùng tướng lưỡi rộng dài khen ngợi chánh pháp. Giải đáp những thắc mắc của chúng sanh, giúp họ không còn nghi ngờ, lầm lạc mà vào Phật đạo.
10 . Chân thật hạnh:
Lòng ngay thẳng, tánh cương trực, dùng lời nói chắc thật, học tập lời chân thật từ ba đời chư Phật, nhập chủng tánh, đồng thiện căn với chư Phật; thân Phật, khẩu Phật, ý Phật, nói Phật, làm Phật đi đứng nằm ngồi đều là Phật.
Nơi chốn đông người hay vắng vẽ, Bồ tát tu hành hạnh Phật không chút do dự, nói là làm, nói lời thật, không tà mị, hướng dẫn chúng sanh không đem những ý tưởng tà vạy vào Tam bảo. Dù tán thân mất mạng, nhưng Bồ tát vẫn không tiếp nhận những chúng sanh tin theo tà kiến ngọai đạo, không tin Tam bảo; giữ gìn hạnh Phật thà chịu nghèo mà không truyền bá những pháp mê tín dị đoan. Bồ tát thà có một người đệ tử, mà người đó biết học Phật, gần gũi Bồ tát, biết kính trọng Tăng Sư, chứ không nhận nhiều đệ tử mà không các tiêu chuẩn trên.
Bậc Bồ tát tu theo pháp vạn hạnh để hòan thành đạo nghiệp và đặc biệt chú trọng tới mười hạnh căn bản trên đây mà đạt đến chân lý. Trong mười hạnh có thể chia ra thành hai bậc: thấp và cao. Từ hạnh hoan hỉ đến hạnh thiện hiện, do nơi tự tâm người tu phát sanh và chỉ cần sự gia công tu tập là có thể đạt được; trong khi đó các hạnh không tham đắm trước mọi vật, lòng tôn kính, thực hiện các pháp lành và tánh ngay thật cần đòi hỏi có một thời gian công phu. Đây là một bước quan trọng trong suốt hành trình tiến vào đường đạo rất khó khăn và trở ngại; nếu không thận trọng rất dễ bị thối chí nãn lòng; nên cần thiết có sự cương quyết, dũng mãnh để chiến thắng những cạm bẩy từ bên trong tâm thức cho tới bên ngòai cảnh vật. Khi thực hành trọn đủ mười hạnh như vậy, bậc Bồ tát đã có một tâm niệm không thối chuyển để tiến lên được xa hơn trong các bậc thang kế tiếp của đạo giải thoát. Chư vị Phật tử có chổ nào cảm thấy phù hợp với tâm tu hành của mình thì tiếp nhận, áp dụng vào đời sống thực tại mà sống vui.
Mười hạnh lành của Bồ tát tu hành trên theo sự giáo hóa của Ngài Thiên Thai Trí Giả thì thuộc vào một trong các bậc Tam Hiền.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo

42. NGÀY THỨ BỐN MƯƠI HAI:

Pháp tu Hồi hướng

Bạch Sư! Xin Sư giảng cho chúng con được hiểu về pháp tu hạnh Hồi hướng?

* Một là cứu hộ tất cả chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng - Hai là Bất hoại hồi hướng – Ba là Đẳng nhất thiết chư Phật hồi hướng – Bốn là Chí nhứt thiết xứ hồi hướng – Năm là Vô tận công đức tạng hồi hướng – Sáu là Nhập nhứt thiết bình đẳng thiện căn hồi hướng – Bảy là Đẳng nhứt thiết chúng sanh hồi hướng – Tám là Chơn như tướng hồi hướng – Chín là Vô phược vô trước giải thóat hồi hướng – Mười là nhập pháp giới vô lượng hồi hướng.
Mười pháp Hồi hướng trên là của Bồ tát trong quá trình tu hành, năng tác Phật sự, sau khi thực hiện thành tựu Phật sự nguyện hồi hướng công đức về khắp pháp giới chúng sanh trong mười phương. Trong quá trình tu hành người tu Phật không quên chúng sanh, luôn chia sẻ công đức lành cho chúng sanh, cho mọi người được an lạc, trên đền đáp ân Cha Mẹ, ân Tổ Thầy, ân Quốc vương (Chủ tịch nước), ân xã hội đồng bào dưới nguyện giúp đỡ mọi người ra khỏi bể khổ sông mê. Sức thanh tịnh của Bồ tát có được bao nhiêu đều chia sẻ cho chúng sanh được an lạc; chúng sanh bị bức hiếp, đánh đập, Bồ tát ra tay cứu vớt, chúng sanh đói khổ Bồ tát ra tay chẩn bần, khiến cho thóat kiếp họan nạn. Chúng sanh đắm chìm trong sanh tử luân hồi, Bồ tát thị hiện thần lực dùng vô lượng pháp môn nói rộng các pháp trợ đạo, phát đại nguyện, nói pháp chơn thật nghĩa, nói pháp hoan hỉ, gần gũi chúng sanh, giúp cho thấy ánh sáng mà bước ra khỏi sanh tử. Vì muốn cho chúng sanh được lợi lạc, nên Bồ tát tu hạnh hồi hướng thật rộng rãi, để có phương tiện mà cứu giúp.
Mười pháp hồi hướng là mười việc lợi lành hướng về tất cả muôn lòai để chia sớt bớt phước báo và cùng nhau hướng đến Phật quả.
1/. Cứu hộ chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng:
Ra ân giúp đỡ cho chúng sanh, nhưng không vì đó mà chấp trước việc cứu giúp, giúp người mà không cần biết người mình cứu giúp, thi ân bất cầu báo. Bồ tát phát nguyện tu hành pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Khởi tâm đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, tu vô lượng căn lành. Nguyện những pháp lành có được sẽ làm lợi ích cho chúng sanh và mọi người, giúp cho người tu đến nơi thanh tịnh rốt ráo, xa lìa khổ não trong chốn địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh… mà an trú Niết Bàn. Cứu độ chúng sanh nhiều như thế mà Bồ tát không thấy có chúng sanh nào để độ thóat.
2/. Bất họai hồi hướng:
Không có một thế lực hay sức mạnh nào phá nổi, cản trở Bồ tát, làm cho thối chí nãn lòng khi đã hứa giúp đỡ cho chúng sanh. Bồ tát tu hạnh phụng thờ ba đời chư Phật, có đầy đủ niềm tin với tất cả pháp, thệ nguyện tu hành các hạnh lành của Bồ tát như từ, bi, hỉ, xả, trong lúc thực hành không hề biếng trể. Bồ tát tu hạnh tin tưởng sâu sắc đối với những người tuyên dương chánh pháp, những phương tiện thiện xảo của Bồ tát, tu hành vô lượng công hạnh, phát huy những hạnh lành, phát tâm rộng lớn giúp chúng sanh thành tựu Phật đạo. Mặc dù chúng sanh có chê bay những lòng tốt của Bồ tát, nhưng vì lợi lạc chúng sanh mà Bồ tát giữ vững công hạnh không lui sụt, khiến cho chúng sanh an lạc.
3/. Đẳng nhứt thiết Phật hồi hướng:
Do lòng từ bi rộng lớn như chư Phật xin nguyện cứu giúp tất cả chúng sanh. Bồ tát tu hạnh tùy thuận học đạo của ba đời chư Phật, Bồ tát trên vì tất cả chư Phật, Bồ tát, Bích chi Phật, dưới vì chúng sanh lục đạo tam đồ. Trên làm cho chư Phật vui lòng, thứ đến tìm cách làm cho chúng sanh thóat khổ được vui, vĩnh viễn xa lìa ác đạo.
4/. Chí nhứt thiết xứ hồi hướng:
Bồ tát hòan thành mọi việc, giúp đỡ cho muôn lòai. Bồ tát tu tập tất cả hạnh lành, sau khi thành tựu đem tất cả hạnh lành ấy hồi hướng khắp nơi trong mười phương, cúng dường công đức lành đến chư Phật. Thường thị hiện những thần thông biến hóa, luân chuyển các thế giới khổ đau thành thế giới an lạc. Giúp ích nhiều phương tiện cho chúng sanh tu hành, đem những công hạnh lành ấy mà cúng dường chư Phật.
5/. Vô tận công đức tạng hồi hướng:
Bồ tát tu hành, làm công tác Phật sự, có bao nhiêu hạnh lành, có bao nhiêu công đức nguyện đem chia sẻ cho tất cả chúng sanh. Trong lúc tu hành Bồ tát tùy thuận vô tận thiện căn, đem đến những công việc Phật sự mà mình đã biết, đã làm chia sẻ hướng dẫn cho mọi người, làm cho mọi người đều được lợi lạc. Trong quá trình tu hành, Bồ tát thường nguyện sám hối nghiệp chướng, sám hối cho mình và sám hối thế chúng sanh (chư Tăng Ni Tịnh Độ Non Bồng đã tu pháp nầy từ những năm 1960 đến năm 1965, lúc bấy giờ gọi là sám hối “ba trăng”, ba tháng),thường xuyên đi lễ Phật, thỉnh đức Phật ở lại đời, nghe Phật chuyển pháp luân ở đâu đều đến đó để hộ pháp, hầu pháp. Tùy hỉ các căn lành, thường trích phần công đức của Phật pháp đem ban bố lại cho chúng sanh khiến cho được ân huệ của Phật.
6/. Tùy thuận kiên cố nhứt thiết thiện căn hồi hướng:
Tất cả những căn lành vững bền Bồ tát có được, đều tùy theo đó mà cứu giúp chúng sanh.
Hồi hướng tất cả thiện căn, giúp chúng sanh được Phật che chở hộ trì, thành tựu tất cả thiện căn kiên cố. Bồ tát tu hành đạt nhiều pháp lành, rồi lại đem những công đức trang nghiêm đó mà trang nghiêm cho chúng sanh. Bồ tát tu hạnh có thế lực, có oai danh lớn, tất cả những hiệu lệnh ban ra đều được mọi người làm theo, mọi người nghe theo, không chống trái.
Ngày xưa như vua A Dục là vị Hòang Đế một đại quốc, nhưng cũng là vị Phật tử thọ học Bồ tát hạnh để trị quốc chăn dân. Vào thế kỷ thứ mười, các vua chúa thuộc các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, các chúa Nguyễn của Việt Nam đều quy y Phật, làm nhà sư, thiền sư, đại sư, áp dụng giáo pháp Phật đưa vào đời sống bình thường mà làm cho nước non thái bình thịnh trị, nhân dân an cư lạc nghiệp kéo dài trên 600 năm. Năm 1949 sau khi được Anh trao trả độc lập, Thủ tướng Nerhu dùng giáo lý Phật đà mà lãnh đạo tòan dân, làm cho một đất nước động dân thứ hai thế giới mà sống theo chế độ dân chủ bình đẳng, xóa tan các giai cấp trong quá khứ. Ngày nay các quốc gia quốc giáo Phật giáo còn tồn tại và vẫn tiếp nhận những giáo pháp quan trọng mà Phật từng ban hành để giúp cho xứ sở đó được hòa bình văn minh. Bồ tát thị hiện làm quan ban hành những pháp thiện đến với các địa phương, họ học tập và làm lành lánh dữ, khiến cho họ không làm sái quấy, nên không có những hình phạt nhân dân như thế gian. Những hình ảnh nầy ngày nay còn tồn tại trên các quốc gia dân chủ, vương quốc Thái Lan, Ấn Độ (giai cấp nô lệ thứ tư được ứng cử dân biểu từ năm 1949; khi Thủ tướng Nerhu chấp chánh, Ngài tuyên bố sẽ đem giáo pháp từ bi bình đẳng của giáo lý Đạo Phật mà đối xử với nhân dân), Lào, Campuchia, Tích Lan, Bu-tan, Si-kim, Tây tạng và Việt nam ngày nay…Bồ tát thường xuyên dùng thế lực của mình bảo vệ nước, bảo vệ dân, xuất của kho đem tài sản bố thí gạo, tiền, y phục, vật dụng, thuốc thang cho người nghèo, người cô độc, người bệnh, người tàn phế ủy lạo cho họ được vui lòng.
7/. Tùy thuận đẳng quán nhứt thiết chúng sanh:
Bồ tát tu hạnh đem tâm đối xử bình đẳng với tất cả chúng sanh, giúp họ hòa nhập sống chung trong cộng đồng, lợi quyền bình đẳng. Bồ tát luôn làm cho mình tăng trưởng thiện căn, để có cơ sở hồi hướng cho tất cả mọi người. Ngày nay Tăng Ni, Phật tử chúng ta nên hướng về với những người dân tộc, thực hiện những công hạnh bố thí, ủy lạo, chăm sóc sức khỏe ban đầu, nâng cao đời sống có giá trị đạo đức xã hội, đạo đức tâm linh cho họ, nâng cao tinh thần yêu nước, giúp cho họ có cuộc sống bình đẳng với người kinh. Bồ tát luôn giúp cho chúng sanh có cơ sở bỏ ác về thiện, chúng sanh biết phát huy tánh thiện, gìn giữ pháp thiện, dù là pháp thiện nhỏ cũng đều được tôn trọng cung kính tiếp nhận, tu hành đạt hiệu quả đến nơi an lạc, giải thóat.
8/. Chơn như tướng hồi hướng:
Bồ tát hay người tu Phật quay về với tánh thật của mình. Thuận theo những việc làm thực tế của mình, đem tâm chân thật mà hồi hướng thiện căn cho chúng sanh. Bồ tát tu hành giữ chánh niệm, tâm vững chắc xa rời mê lầm. Tâm cầu đại thừa, dũng mãnh, siêng năng tu tập pháp lành, khuyến khích không làm việc ác; nuôi lớn lòng đại bi, thường hộ trì Tam Bảo, thành tựu vô lượng pháp tu, làm bậc Thầy mô phạm của mọi người. Đưa chúng sanh ra khỏi những mê vọng tà kiến.
9/. Vô phược, vô trước giải thóat hồi hướng:
Đối với tất cả pháp không chấp trước, tu hạnh không dính mắc, thị hiện giải thóat rốt ráo, xa lìa vật chất, thực hiện lối sống rảnh rang, dành những căn lành hướng về mọi người, tu tập mười hạnh Phổ Hiền làm phương tiện gần gũi chúng sanh, xiển dương những công đức lành, làm lợi lạc trời người.
10/. Pháp giới vô lượng hồi hướng:
Tu tập vô lượng pháp lành, khi được lợi lộc, không sử dụng riêng cho mình, mà chia sẻ cho mọi người, thường phát nguyện hồi hướng vô lượng công đức đến khắp pháp giới chúng sanh. Bồ tát phát nguyện khi đến với mọi người không phân biệt kẻ quen người thân, đến với mọi người bình đẳng, giúp cho họ thỏa nguyện.
Hồi hướng là dùng tâm đại từ đại bi cứu độ tất cả muôn lòai. Thập hồi hướng thuộc về giải thóat trụ trong mười ba trụ, tư lương vị trong năm vị, mười gia vị trong tam hiền, đạo chủng tính trong sáu chủng tính.
Trong những năm khai đạo (1960,1961) Đức tôn sư thường dạy chư Tăng Ni đang tu học vùng non lãnh: "…hãy trở về với sự thật của chính mình, chơn thật bất hư, ăn thật, nói thật, làm thật, như thế mới giúp cho mọi người có hiệu quả.…”
Ở ngày thứ ba mươi chín nói về Thập tín, mười đức tin ban đầu của Bồ tát Sơ phát bồ đề tâm, Tân phát ý vừa tu hành vừa giúp đỡ chúng sanh. Theo Tịnh độ tông, chư liên hữu rất tín tâm về mười hạnh lành nầy, các vị thường học thuộc lòng để giữ gìn không cho lui mất giống Phật mà tu tập, như: các hạnh lành giới tâm, nguyện tâm, hộ pháp tâm… các vị luôn thực hiện trong pháp tu của mình…
Theo giáo pháp của Ngài Thiên Thai Trí Giả thì từ ngày thứ bốn mươi đến ngày thứ bốn mươi hai, nói về pháp tu của Bồ tát Tam Hiền, tức Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng.
Tam Hiền tức là vị bồ tát tu hành chưa đạt đến rốt ráo nên chỉ gọi là “Hiền”; bậc Tam Hiền khi độ chúng sanh Bồ tát thường dùng nhiều phương tiện độ đời, nên gọi là Bồ tát “quyền thừa”, có đẳng cấp tu hành nhưng trình độ tu chứng chưa đạt đến công viên quả mãn.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

43 . NGÀY THỨ BỐN MƯƠI BA:

Mười quả vị Thánh xuất thế gian

Hôm nay chúng ta tìm hiểu về bài pháp mười quả vị thánh xuất thế gian?

Thập Thánh, trong Kinh hoa Nghiêm cũng gọi là Thập Địa; mười quả tu bậc Thánh xuất thế gian, rốt ráo đắc đạo, gọi là Nhứt Sanh Bổ Xứ, tức chỉ còn chờ Đức Như Lai giáng trần thọ ký bổ nhiệm làm Phật sự khắp nơi trong mười phương. Đây là mười quả vị tu chứng của Bồ Tát, có hệ thống khác nhau, theo Tịnh độ tông thì gọi là Thập Thánh, nhưng theo Bồ tát địa, và Thập địa kinh, hoặc do ngài Long Thọ giảng trong kinh Hoa Nghiêm thì gọi Thập Địa gồm: Hoan hỉ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diễm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa.
1/. Hoan hỉ địa:
Đắc quả nầy, Bồ tát rất hoan hỉ trên đường giác ngộ. Bồ tát đã phát bồ đề tâm và thệ nguyện cứu độ tất cả các chúng sanh thóat khỏi luân hồi, không còn nghĩ tới mình, Bồ tát không cầu phước báo và chứng được tính vô ngã của tất cả các pháp.
Cũng gọi Tịnh tâm địa, Thánh địa, Vô ngã địa, Chứng địa, Kiến địa, Kham Nhẫn địa… Là vị trí của Bồ tát mới chứng quả thành bậc Thánh, liền sanh tâm hoan hỉ, cứu giúp chúng sanh thóat khổ được vui có hiệu quả nên sanh tâm hoan hỉ.
2/. Ly cấu địa:
Bồ tát tu hạnh giữ gìn giới pháp và siêng năng tu thiền định, niệm Phật. Cũng gọi Cụ giới địa, Tăng thượng giới địa; là vị trí của Bồ tát tu hành, không còn những ý nghĩ sai lầm giữ giới luật tinh nghiêm, suy nghĩ sai trong Phật Pháp, suy nghĩ sai về thế gian, không phá giới, không còn cấu uế phiền não ái dục, tham sân si. Làm lợi lạc cho chúng sanh giúp họ giải thóat trọn vẹn.
3/. Phát Quang địa (Minh địa):
Bồ tát chứng được quy luật vô thường, tu trì tâm nhẫn nhục khi gặp chướng ngại trong việc cứu độ chúng sanh. Để đạt đến trình độ cao cấp nầy, Bồ tát phải diệt trừ ba độc là tham sân si, thực hiện được bốn cấp định an chỉ của bốn xứ (thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã) và chứng đạt năm thành phần trong lục thông (thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, thần túc, túc mạng).
Vị trí tu pháp nầy nhờ đạt đại định mà được ánh sáng trí tuệ, tu hành và hiển bày pháp tam huệ văn tự tu khiến cho chơn lý ngày càng sáng tỏ trong thế gian.
4/. Diệm huệ địa (Diệm địa):
Bồ tát tu hành đạt đến chổ đốt hết tất cả những quan điểm sai lầm, tu tập trí tuệ và ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Là giai vị Bồ tát đã lìa bỏ kiến giải phân biệt của các hạnh Hoan hỉ, Ly cấu, Minh địa dùng lữa trí tuệ thiêu đốt cũi phiền não, nhờ đó mà ngộ được bản thể trí tuệ, giúp mọi người và chúng sanh thoát vòng mê muội và thú hướng Niết Bàn.
5/. Nan thắng địa (Cực nan thắng địa):
Bồ tát tu hành nhập định, đạt đại trí tuệ, nhờ đó liễu ngộ pháp tứ diệu đế rõ ràng hơn nữa và bản thể chơn như như thế nào, diệt trừ những nghi ngờ và tâm phân biệt năng sở, bồ tát tiếp tục tu hành ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Bồ tát tu hành đạt được chánh trí (thấy tánh), nên không còn pháp nào để tu nữa, làm những việc khó làm, vượt qua những việc khó qua. Giác vị nầy, đạt được trí tuệ xuất thế gian, nương vào năng lực phương tiện tự tại mà cứu độ những chúng sanh khó độ.
6/. Hiện tiền địa:
Bồ tát liễu ngộ mọi pháp vô ngã, ngộ lí mười hai nhơn duyên và chuyển hóa trí phân biệt, thành trí bát nhã, nhận thức tính không. Trong pháp nầy, Bồ tát đạt đến trí tuệ giác ngộ thanh tịnh đi vào đời hoặc nhập Niết Bàn không chướng ngại nên gọi Niết Bàn là thường trụ.Vì lòng từ bi đối với chúng sanh, Bồ tát thường trú trong thế gian, nhưng không bị sinh tử ràng buộc, gọi là Niết Bàn vô trụ (vô trụ xứ Niết Bàn)
Bồ tát tu hành pháp bát nhã ba la mật, hiện tiền sanh khởi đại trí, phát đại tâm tiếp dẫn chúng sanh như hạnh tu của ngài Pháp Tạng tỳ kheo trong kinh Vô Lượng Thọ. Đưa đón chúng sanh vào Phật đạo, trong kinh Hoa Nghiêm có dẫn:”Bồ tát vì chúng sanh mà làm cầu đò” là như vậy. Giúp chúng sanh từ vị trí tà kiến, mê lầm tiến đến giác lộ Niết Bàn thực thụ.
7/. Viễn hành địa:
Đạt đến cảnh giới nầy, Bồ tát đầy đủ khả năng, có mọi phương tiện để giáo hóa chúng sanh. Đây là giai đọan mà Bồ tát tùy ý xuất hiện trong một dạng bất kì hình tướng chúng sanh nào.
Cũng gọi phương tiện cụ túc địa, Vô tướng phương tiện địa, Hữu hành hữu khai phát vô tướng trụ. Bồ tát tu hạnh vô tướng, tâm xa lìa thế gian. Bồ tát đạt đến chổ trên không còn gì để cầu đạo, dưới không còn có chúng sanh để cứu độ; bồ tát tu đạt lý vô tướng tịch diệt. Thường được chư Phật trong mười phương dùng pháp khuyến khích tinh tấn, phát dũng khí tu hành, để tiến lên đệ bát địa, đó gọi là thất chuyển.
8/. Bất động địa:
Trong giai đọan nầy, không còn bất kỳ cảnh ngộ gì làm bồ tát dao động. Công phu tu tập được thực hiện một cách vô ngại. Theo kinh Giải Thâm Mật thì những phiền não vi tế nhất cũng bị diệt trừ ở đây.
Cũng gọi là Sắc tự tại địa, quyết định địa, vô hành vô khai phát vô tướng trụ, tịch diệt, Tịnh địa. Là địa vị tu hành không ngừng sinh khởi trí tuệ vô tướng, tuyệt đối không bị phiền não làm lay động.
9/. Thiện huệ địa: cũng gọi Tâm tự tại địa, quyết định hành địa,vô ngại trụ) Trí tuệ bồ tát viên mãn, đạt đến mười lực, lục thông, bốn tự tin, tám giải thóat. Biết rõ mọi cơ sở giáo pháp và giảng dạy giáo pháp, phát huy giáo pháp Phật trong khắp mười phương.
Bồ tát dùng năng lực vô ngại để thuyết pháp, hòan thành hạnh lợi tha, là giác vị mà tác dụng trí tuệ được tự tại.
10/. Pháp vân địa: cũng gọi cứu cánh địa, tối thượng trụ. Bồ tát đạt nhất thiết trí, đại hạnh, pháp thân của Bồ tát đã đạt tới mức viên mãn. Bồ tát ngự trên tòa sen với vô số Bồ tát xung quanh trong cung trời Đâu xuất. Phật quả của Bồ tát đã được chư Phật ấn chứng. Những Bồ tát đạt đến cấp độ nầy, như Văn thù sư lợi, Phổ Hiền Bồ Tát…
Mười địa trên còn có pháp tu thứ lớp trong mười ba la mật là: thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, nguyện, lực, trí ba la mật. Nhờ đó mỗi địa đều trừ được mười trọng chướng cũng gọi là Dị sinh tính chướng: tà hạnh, ám độn, vi tế, phiền não, nhập tiểu Niết Bàn, thô tướng, tứ tướng niệm hành, vô tướng trung tác gia hành chướng, lợi tha môn trung bất dục hành chướng, ư chư pháp trung vị đắc tự tại chướng.
Bồ tát thập địa tu hành dứt được phiền não chướng và sở tri chướng mà chứng quả Niết Bàn. Bồ tát từ sơ địa đến thất địa, tâm hữu lậu và vô lậu xem tạp lẫn nhau, nên có chia làm phần đọan sinh tử và biến dịch sinh tử. Hàng Bồ tát từ bát địa trở lên chỉ có tâm vô lậu nên thuộc về biến dịch sanh tử.

Theo Tịnh độ chân tông, thì cho rằng nếu hành giả đạt đến tín tâm tha lực thì nhất định sẽ thành Phật, bấy giờ trong tâm tràn ngập hoan hỉ nên gọi là hoan hỉ địa.
Trong Tịnh độ luận của ngài Thế Thân, vì cứu độ chúng sanh nên Bồ tát thị hiện đủ hình tướng, đẳng cấp nầy gọi là Giáo hóa địa. Vãng sanh luận của Ngài Đàm Loan cho rằng Giáo hóa địa là địa vị Bồ tát từ Bát địa trở lên. Tứ là Bồ tát khi độ đời phải phát nguyện, khi về Tịnh độ thành Phật rồi phát nguyện “hòan tướng” mà trở lại cõi mê để độ sanh
Như trên đã nói, năm mươi hai lớp nhơn quả tướng tức là Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hướng, Thập địa, Đẳng giác (Bồ tát), Diệu Giác (Phật); trong đó Thập tín là quả vị đầu tiên của Bồ tát Sơ phát tâm, Tân phát ý, tuy có đẳng cấp tu hành nhưng trình độ tu chứng còn thấp, chỉ có niềm tin, tín tâm mà vào Phật đạo; còn Thập trụ, Thập hạnh, Thập hướng gọi là “Tam Hiền”, tức là bậc tu hành có đẳng cấp trình độ tu chứng nhưng chưa đạt đến giai đọan công viên quả mãn.
Thập địa là bậc tu hành tu chứng có đẳng cấp, sắp đến nơi công viên quả mãn, gọi là Thập thánh. Tu hành đắc đạo rốt ráo thì gọi là “Thánh”, bậc Thập Thánh có thể thị hiện nhiều thân như Di Lặc Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Dược Sư Bồ Tát, Quan Thế Âm, Đại Thế Chí… đi trong thế giới ta bà độ sanh mà không vướng mắc trần lao.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo

44 . NGÀY THỨ BỐN MƯƠI BỐN:

Đẳng giác (Bồ tát)

Chúng ta tiếp tục học về lớp nhơn quả tướng thứ năm mươi mốt, tức là Đẳng giác Bồ tát?
Bồ tát là từ viết tắt của từ ngữ Bồ đề Tát đõa, dịch là Giác hữu tình, hoặc Đại sĩ. Theo Phật giáo đại thừa, Bồ tát là một hành giả, sau khi hành trì các pháp Ba la mật, thành tựu Phật quả, nhưng nguyện không nhập Niết Bàn, khi chúng sanh chưa giác ngộ, như hạnh nguyện của Bồ tát: "Chúng sanh độ tân phương chứng bồ đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật…”, lời nguyện của Tôn giả An nan”như nhứt chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ nê hòan…”.
Yếu tố cơ bản của Bồ tát là lòng từ bi đi song song với trí tuệ. Chư Bồ tát thường cứu độ chúng sanh và sẳn sàng thọ lãnh tất cả mọi đau khổ của chúng sanh, cũng như hồi hướng phước đức của mình cho kẻ khác. Con đường tu hành của Bồ tát bắt đầu bằng luyện tâm Bồ đề và giữ gìn Bồ tát hạnh nguyện. Hành trình tu học của Bồ tát theo kinh Hoa nghiêm thì có năm mươi hai quả vị như đã nói ở trên. Người đệ tử Đức Phật khi phát tâm tu tất cả đều phải trải qua năm mươi hai lớp quả tướng ấy thì mới viên mãn đạo hạnh và thành Phật.
Đẳng giác Bồ tát là đẳng cấp cao của người tu Phật, cũng là tôn hiệu của Phật, chỉ cho sự giác ngộ bình đẳng chân chính, tức giác ngộ chân lý hòan tòan. Theo Vãng sanh luận: "vì các pháp bình đẳng, nên các Đức Như Lai bình đẳng, do đó chư Phật được gọi là Đẳng giác…”
Đẳng giác cũng gọi là đẳng chính giác, Hữu thượng sĩ, Nhứt sanh bổ xứ… giai vị cùng tột của người tu hạnh Bồ tát sau khi trải qua ba a tăng kỳ kiếp. Hàng bồ tát Biệt giáo đọan mười một phẩm vô minh, Bồ tát viên giáo đọan bốn mươi mốt phẩm vô minh sắp lên quả Phật Diệu giác. Trí tuệ và công đức của Đẳng giác gần giống như Diệu giác, nên gọi là “Đẳng giác”.
Theo Tịnh độ chân tông ở Nhật Bản thì: “người có tín tâm đối với tha lực, đạt được giai vị nầy ở hiện đời, cho nên so sánh tín tâm nầy với Đẳng giác Kim cang tâm của Phật”

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo
45 . NGÀY THỨ BỐN MƯƠI LĂM:

Diệu Giác (Phật)

Chúng ta tiếp tục học về quả vị thứ năm mươi hai là Diệu giác?
Giai vị Diệu giác cũng chính là quả vị Phật, người tu đạt đến sự giác ngộ mầu nhiệm, giác ngộ chơn lý lấy mình.
Chúng ta đã từng hiểu Phật còn gọi là Phật đà, người miền Bắc, người Việt nam ở nước ngòai dịch sách Phật xưa gọi là Bụt, ngôn ngữ Tàu dịch là Giác giả, ngôn ngữ Việt nam chúng ta gọi là Người giác ngộ.
Mặc khác, trong sách Phật, còn giải nghĩa ngôn ngữ Phật là một bậc giác ngộ, mà sự giác ngộ đó được giảng thành đấng: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, có đầy đủ lòng từ bi, hỉ xả, có đủ kiến giải tam minh, lục thông, giải thóat sanh tử cho chính mình và cho tất cả chúng sanh trong mười phương. Giáo lý của nhà Phật khẳng định:”tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, trong khi đó Đức Phật Thích Ca là Phật đã thành, mọi người đều có khả năng thành Phật và sẽ thành Phật trong tương lai.
Nói sau cho hết nghĩa, đúng nghĩa về đấng giác ngộ của Đạo Phật chúng ta. Nói đến đức Phật thì các phái ngọai đạo từ xưa đến nay hòan tòan bó tay, không lý giải sau cho hết nghĩa ngôn ngữ Phật, vì giáo lý nhà Phật lý giải ngôn ngữ Phật, nói rằng: trong mọi người, mọi chúng sanh đều có tánh Phật nầy.
Gọi là Diệu giác tức là chánh đẳng chánh giác, không thừa nào trên được Phật quả nầy vậy.
Hai thừa Thinh văn, Duyên giác chỉ giác ngộ lấy mình, không có công lao giác ngộ kẻ khác. Bồ tát giác ngộ lấy mình, giác ngộ cho kẻ khác, song chưa công viên quả mãn, duy chỉ có Phật mới đầy đủ sự giác ngộ chính mình và giác ngộ cho chúng sanh không thể suy nghĩ bàn bạc được nên gọi Diệu giác là Phật, là Đại giác Thế tôn cũng gọi là Giác hạnh viên mãn.
Diệu giác chính là giai vị cuối cùng trong quá trình tu hành của Bồ tát đại thừa, đã dứt sạch vô minh, chứng được trí tuệ không thể nghĩ bàn. Đây là một trong năm mươi hai lớp nhơn quả tướng tu hành của hành giả đại thừa giáo; Bồ tát phải trải qua ba vô số kiếp tu hành, trải qua năm mươi hai lớp nhơn quả như thế mới đến quả vị Phật.
Chúng ta phân tích một vài ý niệm cao siêu về đấng Diệu giác hay đức Phật, đấng Giác ngộ như sau:
1/. Những người có tấm lòng bao la: từ bi quảng đại
2/. Người giác ngộ: ra khỏi sanh tử
3/. Phật tính: Người có tánh giác ngộ
4/. Phật lực: đại hùng, đại lực, đại từ, đại bi
5/. Phật: người giác ngộ
6/. Thích Ca Mâu Ni: vị Phật đản sinh tại Vương quốc Ca tỳ La vệ, năm 524 (trước tây lịch) viên tịch vào năm 80 tuổi, năm 443 (trước tây lịch)
Học phái Thiên Thai giải thích chổ sai biệt giữa Biệt giáo và Viên giáo về quả vị Diệu giác (Phật) như sau:

Theo đại thừa biệt giáo thì quả vị Diệu giác ngồi trên tòa Đại bảo hoa vương dưới cội Bồ Đề Thất Bảo Nơi Thế Giới Liên Hoa Tạng, hiện ra báo thân viên mãn để giáo hóa chúng sanh độn căn.
Theo đại thừa Viên giáo thì quả vị Diệu giác lấy hư không làm tòa, thành tựu Pháp thân thanh tịnh, an trú trong cõi Thường tịch Quang (kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm).

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo

PHẦN VIII
Giải nghi
&&&

CHƯƠNG THỨ MƯỜI TÁM

46 . NGÀY THỨ BỐN MƯƠI SÁU:
Tịnh Độ và Khất Sĩ

Chúng con là Phật tử thuần túy của Quan Âm Tu Viện, thường nghe dư luận nói: "…ở Quan Âm Tu Viện hoằng truyền Tịnh Độ tông, niệm Phật, nhưng sao lại có tu và hoằng truyền hạnh Khất sĩ…”. Xin thưa! Có trở ngại giữa hai phái không? Tu pháp nào là chính, chúng con phải tu hạnh nào cho đúng với tông chỉ môn phong?

Đứng về gốc độ truyền thừa có tổ chức Giáo hội thì Khất sĩ là Đạo Phật Khất sĩ Việt nam hay thế giới; còn Tịnh độ là Tịnh độ tông Việt nam hay thế giới, mỗi một phái có pháp tu công hạnh riêng dành cho Tăng Ni, Phật tử của phái đó tiếp nhận tu hành, còn gọi là biệt truyền.
Người tu niệm Phật thì tu pháp niệm Phật, làm cho ý chí mình bền vững như trụ đồng, không gì lay chuyển pháp tu. Tu pháp niệm Phật mà có gia hạnh thêm pháp tu Khất sĩ thì người tu đó được tăng thêm ý chí giải thóat, bảo đãm cho sự tu hành có thêm nội lực, đúng nghĩa với luận giảng qua sông “cần đò” là vậy. Chính Đức tôn sư Tịnh độ Non bồng cũng phát nguyện thọ pháp y Khất sĩ từ năm 1962 cho đến khi Ngài liễu đạo ngày 30 tháng bảy, năm 1986.
Ngày mùng 8 tháng tư năm Quý Hợi, nhằm ngày 20/5/1983, tháng ngày hành đạo tại Quan Âm Tu Viện, Ngài an trú am Bạch Tịnh, lúc bấy giờ các chùa trong tông phong đã đứng trong Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, nhưng vì pháp môn, vì hạnh tu, vì tương lai Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng, vì nội bộ chúng tôi có trình bản nội quy Hội đồng Tông phong, nội dung là để cô đọng hệ thống hoằng truyền sự tu hành theo pháp môn niệm Phật, “kế thế khai lai, truyền đăng tục diệm” Liên tông Tịnh độ Non bồng. Đức tôn sư xem xong và nói: "…môn phong Non bồng tu Tịnh độ là đúng rồi, nhưng việc hoằng truyền khắp mười phương, tức là Đạo Phật Non bồng làm lợi lạc chúng sanh trong mười phương, nhiều chủng lọai, nhiều hình thức tổ chức đến cùng chung tu, không phải chỉ có Tịnh độ Non bồng, hẹp hòi lắm… việc làm của ông Sư thì được, nhưng phải chờ khi “Má”, tức Đức tôn sư về với tổ Phật…”.
Đức tôn sư nói tiếp: "…ông Sư (tức Sư Quang) thấy trên Tây phương Bồng đão đó, có chư Tăng Khất sĩ, Khất sĩ ngài Minh Đăng Quang, Khất sĩ ngài Đại sư Huệ Nhựt, Khất sĩ Sư Trưởng Hùynh Minh, Khất sĩ Sư Trưởng Từ Huệ, Tăng già Nam việt, chư Tăng đệ tử ngài Pháp chủ Khánh Anh, chư Ni chùa Vạn Đức, chư tăng Lục hòa tăng… cùng về chung tu đó sao…?”
“Non bồng là của mọi người, chúng sanh trong mười phương, tất cả đều có đến với Non bồng”, ý chỉ Đức tôn sư là trong môn phong Tịnh độ Non bồng còn có nhiều người tu, còn có gia hạnh những pháp tu khác nữa, chẳng hạn như hạnh Khất sĩ… Lúc bấy giờ tôi tiếp nhận ý chỉ đó, quỳ lên đảnh lễ Đức tôn sư ba lạy.
Gần ba mươi năm sau, tức là giờ nầy khi ngồi tập trung quán chiếu, biên sọan quyển sách nầy chúng tôi mới nghĩ ra: “ánh đạo của Đức tôn sư hoằng truyền không xơ cứng ích kỹ theo tín điều mà mình đã quy định, đạo từ bi là quảng đại, cao cả vô biên ví như “dàn hợp xướng” có nhiều cung bật mới phát ra những âm thanh “li tao” vi diệu; như hoa sen tỏa ngát hương thơm khoe những sắc màu Phấn đà lị, Ưu bát la, Câu vật đầu; như hoa Osaka đến ngày trổ thì không còn e ngại thẹn thùng trong nắng hạ, như ý tưởng Đức tôn sư không khô khan mà dạt dào thanh tĩnh giữa trăng thu, không như chúng tôi thầm tưởng!
Cách làm đạo của Đức tôn sư cho đến giờ nầy có hiệu quả cao đối với các chùa trong tông phong mỗi khi có vị Trụ trì viên tịch thì không có các sự tranh chấp chức vị quyền lực trong chốn thiền môn; vì sự việc thừa kế theo Tôn sư dạy “không truyền cho một người mà truyền cho tập thể, cử ra một Ban Quản trị, gồm Ban Viện chủ, Phó Viện chủ; Ban Trụ trì có Trụ trì, Phó trụ trì, mỗi người làm một Phật sự, mà cống hiến trí tuệ công sức của mình cho đạo pháp và tập thể…” thành thử không còn có việc tranh chấp chi cả!
Cho đến sau khi Đức tôn sư viên tịch, năm 1990 chúng tôi có trình Ni trưởng Tông phong xem bản nội quy (quy chế dành cho nội bộ tông phong) lần thứ nhất, nhưng Ni trưởng cũng chưa đồng ý, vì phải để xem lại và có sự điều chỉnh, sau đó mới công bố với chư Tăng Ni để góp ý. Đến 7 năm sau, vào lúc 21 giờ, ngày mùng 9 tháng giêng năm Đinh Sửu (dương lịch ngày 15/01/1997), tại cuộc họp nội bộ Hội đồng tông phong hằng niên, địa điểm lầu 2, Phật học Đường Tây Phương Bồng Đão, Tổ đình Linh Sơn, chư Tăng Ni, Phật tử Hội đồng Tông phong góp ý bản nội quy và nhất trí thông qua, trong đó có quý Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức đạo cao đức cả tu pháp môn niệm Phật Tịnh độ Non bồng, giữ hạnh Khất sĩ từ trên năm mươi năm qua, như Hòa Thượng Thích Giác Khánh, Hòa Thượng Thích Thiện Thành, Hòa Thượng Thích Thiện Hồng, Hòa Thượng Thích Giác Thông, Hòa Thượng Thích Thiện Thọ, Hòa Thượng Thích Huệ Hải, Hòa Thượng Thích Giác Quang, quý Thượng Tọa Thích Thiện Trung, Thượng Tọa Thích Thiện Nghĩa, Thượng Tọa Thích Thiện Tâm, Thượng Tọa Thích Thiện Thanh, Thượng Tọa Thích Từ Độ, Thượng Tọa Thích Từ Lợi, Thượng Tọa Thích Pháp Hỉ, Thượng Tọa Thích Chơn Bửu, Thượng Tọa Thích Thiện Trang, Thượng Tọa Thích Thiện Hỉ, quý Đại Đức Thích Minh Vũ, Đại Đức Thích Minh Khai, Đại Đức Thích Thiện Tâm; Đại Đức Thích Tâm Giới làm Thư ký biên bản (các tư liệu, biên bản hội nghị hiện nay còn lưu trử tại Tịnh thất Bảo Tịnh, thuộc Quan Âm Tu Viện).
Như trên đã nói, đứng về gốc độ tổ chức truyền thừa; về lý tánh thì pháp nào thuộc của Phật, chư Tăng Ni, Phật tử chúng ta có thể tiếp nhận làm bản hạnh tu hành, đều đạt đến giải thóat, nếu người đó phát tâm học đạo giải thóat.

Tịnh độ tông là pháp phái tu hành niệm Phật, niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, xuất phát từ kim ngôn ngọc ngữ của Phật Thích Ca thuyết giảng, chư vị Đại Bồ tát kết tập Bồ tát tạng ngòai hang Thất La Phiệt (núi Thiết vi) sau Phật nhập diệt bảy ngày, trong đó có kết tập kinh A Di Đà và các kinh bản đại thừa khuyến giáo nguyện sanh Tịnh độ (Di đà sớ sao, trang 8, bản dịch HT Thích Hành Trụ, 1953); cho đến một trăm năm sau Bồ tát Long Thọ, nhập pháp thiền Long Phấn Tấn Tam Muội, vào cung rồng Ta Kiệt La, sao chép lại kinh Đại thừa Phương quảng Hoa Nghiêm, kính tôn lời vàng đây là lời dạy của Phật Thích Ca, kinh cũng xứng tán Tịnh độ và sách tấn chư Bồ tát, Bồ tát Phổ Hiền nguyện sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà. (phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện).

Bạch Sư! Xin Sư nói về tổ chức của môn phong Liên tông Tịnh độ Non bồng.
Nói là Tịnh độ Non bồng, như quý Phật tử được biết được Đức tôn sư khai sơn môn phong giáo hóa cho Tăng Ni, Phật tử tu hành niệm Phật, niệm danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” từ năm 1958 đến nay. Tổ chức môn phong pháp phái nào cũng thế, cũng không khác ở thời kỳ Đức Phật sinh tiền, mọi quyết định Phật sự đều do Đức tôn sư chỉ giáo, mọi công việc Phật sự đều phải thưa thỉnh Tôn sư. Không ai có thể làm khác, hoặc trái ý Đức tôn sư, đó là đạo lý của Nhà Phật, đạo đức của người đệ tử Phật đối với Tổ Thầy, cũng như một nhà Sư phải có gương hạnh đạo đức tiêu biểu cho Tăng Ni, Phật tử là vậy.
Ngày 30 tháng 7 năm Bính dần (1986) Đức tôn sư viên tịch, Ni trưởng Thích Nữ Huệ Giác là Trưởng tử thừa kế sự nghiệp đạo đức của Tôn sư, cho nên mọi Phật sự của tông phong đều do Ni trưởng quyết định. Ngòai ra năm 1990 Ni trưởng đứng ra tổ chức hội nghị môn phong hằng niên, cũng là hội nghị chư Tăng Ni, Phật tử lần thứ ba để góp ý cho bản thảo nội quy tông phong (lần thứ nhất năm 1967, lần thứ hai năm 1989) thành lập Hội đồng tông phong.
Địa điểm Tổ đình Linh Sơn là nơi Đức tôn sư khai sơn môn phong, Hội đồng tông phong gồm có 50 thành viên Tăng Ni, 20 thành viên nam nữ Phật tử gồm có quý vị Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư đạo cao đức cả, tu hành thâm niên, quý vị giáo sư, bác sĩ, trí thức, quý vị cư sĩ tu hành đạo hạnh nghiêm túc… là một tập thể ưu tú của Tịnh độ Non bồng.
Hội đồng tông phong là một tập thể, khi Ni trưởng tông phong muốn làm một Phật sự lớn như trùng tu tổ đình, thành lập cơ sở chùa mới, thành lập Ban nông thiền ở địa phương mới..v.v..đều có đưa ra tham khảo ý kiến Hội đồng, cuối cùng Ni trưởng tiếp nhận ý kiến và quyết định thực hiện.

Bạch Sư! Còn tổ chức và sinh họat tu hành ở Quan Âm Tu Viện?
Quan âm Tu viện là trung tâm giáo hóa Tăng Ni, Phật tử tu hành theo pháp môn niệm Phật thuộc Tịnh độ tông, nơi đào tạo Tăng Ni, Phật tử trở thành những tu sĩ ưu tú của nhà Phật, một tổ chức trong đó có Ban Quản trị, Viện chủ, Trụ trì, Phó Trụ trì và các Tiểu ban Tăng sự, Giáo dục Tăng Ni, Hoằng pháp, Từ thiện xã hội, Trang nghiêm trùng tu Tu viện, Nông thiền và các Phật sự chuyên môn khác. Tu viện do Ni Trưởng Thích Nữ Huệ Giác làm Viện chủ kiêm Trụ trì (có quyết định bổ nhiệm của Ban Trị Sự THPG Đồng Nai). Từ năm 1982 có quý Hòa thượng Thích Giác Châu, làm Phó Trụ trì 1, Hòa Thượng Thích Thiện Thành làm Phó Trụ trì 2, Hòa thượng Thích Giác Quang làm Chánh Thư ký.
Năm 2003 Hòa thượng Thích Giác Châu viên tịch, Hòa thượng Thích Thiện Thành được tông phong cử làm Trụ trì chùa Long Phước Thọ vào năm 2008. Hiện nay Hòa thượng Thích Giác Quang làm Phó Trụ trì, thay mặt Ni trưởng Trụ trì trong những lúc vắng mặt, đi du hành xa lâu ngày, bệnh yếu, chịu trách nhiệm về mặt đối ngọai với Cơ quan Chính quyền và Giáo hội, hướng dẫn Tăng Ni Phật tử tu hành và hoằng truyền pháp môn niệm Phật của Tịnh độ tông và Tịnh độ Non bồng.

Bạch Sư! Quan Âm Tu Viện rộng lớn quá, khi vào Tu viện chúng con không biết làm sao gặp được Ni trưởng Trụ trì để gọi là đi chùa lễ Phật và xin học Phật pháp, xin Sư giải bày cho chúng con?
Như đã nói ở trên, Quan Âm Tu viện là ngôi Tam bảo, có đông Tăng Ni tu hành, sống tập thể, nếu là tập thể thì phải có tổ chức, có nền nếp, có lề lối định hướng; Ban Quản trị chính là tổ chức đó; đồng thời nơi đây truyền bá xương minh pháp môn niệm Phật, các Phật tử muốn học đạo hay có việc cần về Phật pháp thì gặp Ni trưởng Trụ trì là người Thầy dạy đạo cho các vị, trường hợp không có Ni trưởng thì gặp Hòa thượng Phó trụ trì, nếu không có Hòa thượng thì gặp những vị Sư có hiểu biết và nắm vững về Phật pháp, giáo lý, đạo lý nhà Phật, pháp môn tu, chỉ dẫn tu như thế nào cho đúng, cách thức đi đứng, nằm, ngồi niệm Phật, tụng kinh, nói đúng chủ trương, những giáo pháp liên quan đến môn phong Tịnh độ Non bồng.
Nói về pháp tu khác, ở Quan Âm Tu viện không có pháp tu khác. Sinh tiền Đức tôn sư không giáo hóa mà cũng không cho phép Tăng Ni, Phật tử hành nghề mê tín dị đoan, như: hành nghề vẽ vời và cho bùa chú, ếm đối, xem sao xũ quẻ, tiên tri bốc phệ, soi căn, ông xuất bà nhập , cho phép làm ăn… các pháp nầy không phải là pháp tu, không phải là đạo lý nhà Phật.
Có người đến xin Ni trưởng hộ trì cho: “ăn nên làm ra, sinh con tốt, dạy con ngoan, xây nhà cữa..." Ni trưởng chỉ đến bàn Phật lễ Phật, xin Phật hộ trì cho… chỉ có thế!

Vì sao Tịnh độ Non bồng có tu hạnh Khất sĩ, tu Tịnh độ sao mặc pháp phục Khất sĩ?
Khất sĩ là của ba đời chư Phật, không phải chỉ có một đời của Đức Phật Thích Ca hoằng truyền Khất sĩ, hay chỉ có ở thế kỷ hai mươi nầy mà thôi, ai phát nguyện chí tâm giữ hạnh tu thì đạt cứu cánh. Nên dù tu theo giáo pháp nào đi nữa, cũng đều có viềng mối, phải có thỉ có chung, có Tổ có Thầy.

Nguyên nhân thứ nhất: Vào năm 1955 Đức tôn sư Hòa Thượng thượng Thiện hạ Phước là người cầu pháp Đức Sư Ông Bửu Đức, học đạo tám tháng, Sư Ông dạy về miền đông lập đạo. Còn Đức giáo tổ Minh Đăng Quang thì gặp Đức Sư ông Bửu Đức vào năm 1943, tại cầu số 1 Rạch Giá, lúc bấy giờ Sư ông dạy là”khi hành đạo Ngài đừng nhắc đến tôi nữa, tôi chỉ là ông già thất nghiệp”, hộ trì vô vi cho Ngài đi hành đạo mà thôi. Qua sự việc cầu pháp trên, chúng ta thấy Đức giáo tổ Minh Đăng Quang và Đức tôn sư có cùng chung một “Thầy”, hoặc cùng được trợ duyên hóa đạo.
Nguyên nhân thứ hai: Năm 1967, Hội Phật giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam, tổ chức Đại hội vào ngày 16/4 âl, nhằm để tập trung các nhà sư Khất sĩ quá đông trong cả nước mà không được tổ chức Giáo hội đỡ đầu, không có nơi nương tựa cư trú theo luật pháp hiện hành, quý vị lãnh đạo trong Ban chấp sự Trung ương quyết định thành lập Tăng Đòan Khất Sĩ Trung Ương thuộc Hội Tịnh độ tông; được chư Sư, chư tôn đức Tăng hưởng ứng nhất trí cao và suy cử Thượng Tọa Thích Giác Hải (Bửu Long) là Tăng Trưởng.
Ngày 6/7 âl, năm 1967, Đạo Phật Non Bồng tổ chức Đại hội lần thứ nhất thành lập Liên tông Tịnh độ Non bồng và Đòan Du Tăng Khất Sĩ Non Bồng, họat động theo giấy phép của Hội Phật giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam.

Nguyên nhân thứ ba: Tại tổ đình Linh Sơn, ngôi cổ tự trên 200 năm, sau khi Đức tôn sư được giao nhiệm vụ Trụ trì, Tôn sư liền khai sơn ra”Đạo Phật Non Bồng”, tiền thân của Liên tông Tịnh độ Non bồng và Khất sĩ Non bồng, Đức tôn sư chỉ giáo Nhà Sư Huệ Minh tạc long vị bằng gổ giáng hương thờ Đức giáo tổ Minh Đăng Quang tại Tổ đường, từ năm 1960 cho đến năm 1965 Tổ đình Linh Sơn bị chiến tranh tàn phá, tất cả Phật đồng, cốt cement đều hư họai, riêng chỉ có long vị Đức giáo tổ là còn nguyên vẹn thờ tại Tịnh xá Khất sĩ, bên cạnh Chính điện Tổ đình cho đến ngày nay 2010 vẫn còn được Ni Trưởng Huệ Giác phụng thờ long vị đó.

Những nhân hạnh lành nhỏ: Năm 1960, khi mới về núi xuất gia, Sư Giác Quang được Đức tôn sư trao cho tượng Đức giáo tổ Minh Đăng Quang, tôn sư dạy để phụng thờ, sau nầy hộ trì cho Đạo Phật Khất Sĩ. Hồi năm Sư Giác Quang mới 11 tuổi (1958) đi cùng với Ba từ Mỹ Tho về Chợ Gạo, gặp một Đòan Du Tăng Khất Sĩ đi trì bình Khất thực thật trang nghiêm nghi vệ, Ba dạy “lạy Phật đi con”, Sư Giác Quang liền quỳ gieo năm vóc sụp lạy quý Sư ba lạy…
Những mẫu chuyện nhỏ nầy là gì? Chính là nhân hạnh căn nguyên, căn lành mà Sư Giác Quang cho đến nay được làm Hòa Thượng hoằng truyền Tịnh độ vừa giữ hạnh Khất sĩ.
Với những nhân hạnh của các bậc Tổ Thầy, các bậc Tôn túc hoằng hóa như trên mà Tăng Ni Quan Âm Tu Viện, tức Tịnh độ Non bồng có tu thêm pháp hạnh Khất sĩ là vậy.

Từ năm 1951 đến nay có nhiều tổ chức giáo phái Phật giáo cùng đứng trong một tổ chức, tức là mỗi tổ chức Giáo hội có nhiều môn phong pháp phái, ý tưởng hạnh tu cùng đứng chung, nhưng chư Tăng Ni vẫn an nhiên tự tại tu hành. Đạo Phật trên đất nước Việt Nam chúng ta, chư Trưởng lão tôn túc hoằng truyền rất phong phú đa dạng, như :
* Giáo Hội Tăng già tòan quốc tổng hợp Phật giáo ba miền Bắc Trung Nam thành lập ngày 7/9/1951 do Hòa Thượng Tuệ Tạng làm thượng thủ; Tổng Hội Phật giáo Việt Nam thành lập vào thời kỳ chấn hưng Phật giáo ngày 9/5/1951 (4/4/Tân Mão) do Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết được suy tôn làm Hội chủ, quy tụ 3 tập đòan Tăng già, ba tập đòan Cư sĩ cả nước (50 năm chấn hưng Phật giáo của HT Thiện Hoa, trang 82).
* Năm 1964 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất thành lập, tổ chức đại hội từ ngày 30/12/1963 đến ngày 01/01/1964 tại chùa Xá Lợi có cả 11 hệ phái, đứng chung trong một Giáo hội, trong đó có Phật giáo Nam tông, Phật giáo Khất sĩ? (50 năm chấn hưng Phật giáo của HT Thiện Hoa, trang 127).
* Năm 1967 Giáo hội Phật giáo cổ truyền thống nhất hai phái Lục hòa tăng và Lục hòa Phật tử?
Chư Tăng Ni Non bồng nhận thấy Pháp tu niệm Phật và tu pháp hạnh Khất sĩ rất gần gũi; trong pháp tu của Khất sĩ, quyển nghi thức tụng niệm dành cho thiện nam tín nữ Khất sĩ thọ trì, tuy được chư Sư chế tác thành văn vần, nhưng cũng có nghi thức tụng kinh A Di Đà (Nghi thức tụng niệm, trang 117). Kinh A Di Đà là bộ kinh chính yếu trong tam kinh phái Tịnh độ.
Trong bộ Chơn lý Đại đồng, Bài học Khất sĩ, trang 283, có giảng bài cầu nguyện cầu sanh Tây phương Cực Lạc như sau:
* Phước cúng dường nầy của tín chủ
Tam nghiệp thanh tịnh định huệ tu
Tánh cũ tự mình gồm chứa đủ
Tây phương an dưỡng hưởng thiên thu.
* Phước cúng dường nầy của chư linh
Dứt tiêu tội chướng thóat vô minh
Sám hối ăn năn tâm niệm Phật
Tây phương cực lạc đắc siêu sinh
* Phước cúng dường nầy của bá tánh
Cầu an tai nạn đặng muôn lành
Phát nguyện tu hành thành chánh giác
Tây phương Tịnh độ chỗ vãng sanh

Hay như bài văn vần, nhan đề”Nhẫn” trang 296, câu 33,34 khuyên niệm Phật:

Có nên dẹp lửa cho xa
Có nên nhẫn nhục cho qua tháng ngày
Có nên lắp mắt ngơ tai
Có nên niệm Phật hoài hoài hay chăng?

Dẫn chứng qua các tổ chức Giáo hội hoằng truyền giáo pháp Đức Phật trên, cho thấy chư Tăng Ni, Phật tử Quan Âm Tu Viện tu Tịnh độ niệm Phật, có tu thêm pháp hạnh Khất sĩ thật rất gần gũi không có gì phải nghĩ suy.
Tịnh độ và Khất sĩ là những pháp môn trong tám muôn bốn ngàn pháp môn của Phật. Phép niệm Phật của Tịnh độ là tông chỉ, quý Phật tử tu đúng tông chỉ tất sẽ thành tựu Phật đạo, dứt nghi, đấy là pháp tu của Tịnh độ Non bồng.

Xin lưu lại nơi đây những ý niệm lành của đức tôn sư với đạo Phật Khất Sĩ: "Bài xưng tán công đức y bát”
Đêm khuya lẳng lặng trăng rằm
Canh ba điểm bút thậm thâm diệu huyền.
Ôn cố nghìn thu lưu tạc dạ
Tâm tư suy gẩm ánh từ quang,
Của quí muôn thu tích đạo tràng
Bửu pháp nan lương y vô thượng
Phước điền y chánh hiệu Thế Tôn.
Bát chánh đạo thiên thu lưu tạc dạ
Giải thoát muôn loài đạo Thích Ca
Tam y thất chứng hiệu Ta Bà.
Kim nhựt tồn tâm xưng tán niệm
Thích tử tán dương công đức hải
Pháp y vô thượng thắng Như Lai
Bát chánh đạo hoằng khai vô lượng kiếp,
Tướng lưởi tam thiên ca tụng tán
Tam giới pháp vương vô thượng sư
Thích tử hậu lai tán dương công đức Phật.
Báo y chánh pháp thiên thu thọ
Đạo bát chánh xuất nhơn gian .
Nầy Thích tử lẳng lặng tâm minh,
Các con hảy lẳng lặng mà làm thinh
Cái chi vui cho bằng đạo Mâu Ni Thích bửu
Cái chi vui cho bằng kẻ giải thoát triền miên,
Thân tâm chánh hạnh chẳng đảo điên
Kẻ xuất gia lòng dạ chẳng chinh nghiêng
Nầy Thích tử giáo lý Như Lai thật diệu huyền
Cũng bởi chiếc y vô thượng phước điền tâm
Bát chánh đạo vạn năm bất hoại
Lẳng lặng làm thinh trong lẳng lặng
Pháp tướng tâm y diệu diệu lành
Bát chánh đạo niệm niệm chẳng sanh
Đêm thanh gió mát ánh trăng tròn
Niệm niệm Như Lai điểm điểm son.
Ngũ trược nhơn gian hề mộng ảo
Pháp y tối thượng đó nghe con
Nầy Thích tử vắng lặng lòng son tâm an ổn
Thầy hằng ca tụng bốn oai nghi
Bổn thệ nguyện tu trì vô lượng kiếp
Như Lai pháp bửu thiệt Thế Tôn.
Bốn tướng thinh thinh nhịp nhàng mấy độ
Oai nghi thắng thượng đạo chơn truyền
Phước báo nhơn thiên đời đời bất diệt
Chúng sanh sáu cửa đặng yên tâm
Như Lai xuất hiện ánh trăng rằm
Nầy Thích tử hà sa vô lượng kiếp.
Công năng tối thượng phục bái Như Lai
Kim nhựt đại hạnh nguyện thệ hoằng khai
Thích tử thủ trì y bát .
Đạo Như Lai tối thượng nhơn gian
Muôn loài thoát khổ cảnh lầm than
Thiện tâm giác ngộ ban vui cho trần thế
Xuất gia phạm hạnh giải đường mê.
Khai mở tứ diệu đề y vô thượng
Thoát ly sanh tử độ trần gian .
Như Lai tướng hảo bởi tâm ngài đại hảo
Thầy hằng khen con thúc liểm oai nghi
Phạm hạnh đầu đà vi tối thượng
Tấn đạo nghiêm thân thoát bụi trần
Lẳng lặng trầm tư tâm vô tận
Tịnh tọa công phu giải thoát tâm
Như Lai xuất hiện ánh trăng rằm
Quang minh phô tả tận tam thiên
Pháp vũ ban truyền thông tam giới
Nầy Thích tử buổi bình minh tỏ rạng ,
Xa xa trông thấy dạng Sa Môn
Tướng hảo Tỳ Kheo tăng phẩm hạnh
Oai nghi đạo hạnh thật trang nghiêm
Đường hoang lộ chơn đi nhẹ gót
Bổng trực nhìn biệt hiệu của Sa Môn
Tướng hảo quang minh khắp tiếng đồn.
Đạo Như Lai phổ tế trần lao
Chúng sanh sáu nẻo phát lòng từ vô lượng
Khai tâm nhơn thế xã bỏ tham sân
Gieo duyên trong thế hệ phước điền nhơn gian
Khổ hạnh thiên thu đạo Thích Ca
Oai nghi bốn tướng hiệu đầu đà
Dạo khắp nhơn trần trong bá tánh.
Thoát ly tam giới Sĩ Đạt Ta
Tiếng dội hằng sa trong thế giới
Gô Ta Ma giải thoát hạnh đầu đà
Lẳng lặng tham thiền trong lẳng lặng
Xóa đi những ảo mộng trần lao
Muôn ngàn danh lợi chẳng xuyến xao
Trăm vui muôn đẹp nhơn gian huyển ảnh
Rửa sạch tâm nhơ thoát bụi hồng
Sáu căn chẳng chút ố lem
Cửu khiếu tịnh thiền tâm giải thoát
Xa lìa thập ác xóa lợi danh .
Nầy Thích tử đạo Mâu Ni kiêng cử vọng tâm
Trang nghiêm bốn hạnh chẳng thì thầm
Lục tự nam mô chẳng loạn tâm
Tịnh thiền niệm Phật duyên minh tịnh
Công phu lục tự tịnh tọa an cư
Rửa tâm thuốc quí đạo Di Đà
Lục tự ma ha tịnh tọa thiền
Bốn tướng oai nghi chơn pháp tánh
Kiết già tịnh tọa niệm hồng danh
Oai nghi bổn hạnh đạo cao thâm
Vô thượng y vương hiệu pháp trầm
Bát chánh đạo mùi thơm lưu vạn thuở
Kim nhựt Thích tử tín thọ phụng hành
Bốn hạnh trang nghiêm thành tịnh độ
Lăng nghiêm pháp bửu giải tâm phàm
Rửa sạch tâm nhơ nghiêm trì giới luật
Giác ngộ chơn tâm bổn tánh Như Lai .
Nầy Thích tử tín thọ phụng hành :
Như Lai tướng đại hảo bởi tâm ngài đại hảo,
Như Lai tướng đại thanh tịnh,
bởi tâm Ngài đại thanh tịnh ,
Như Lai tướng đại quang minh ,
bởi tâm Ngài đại quang minh,
Như Lai tướng đại kiết tường,
bởi tâm ngài đại kiết tường,
Như lai tướng đại trang nghiêm,
bởi tâm ngài đại trang nghiêm.
Nầy Thích tử, y là y vô thượng bát chánh đạo
Thiện tai, thiện tai,thế gian hy hửu
Thiện tai, thiện tai,thế gian hy hửu !

Ngày Rằm tháng Tư năm Quí Sửu (27/5/1973).
Đức Tôn Sư thượng Thiện hạ Phước

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

47 . NGÀY THỨ BỐN MƯƠI BẢY:

Mười tám (sáu) vị A La Hán

Bạch Sư! Chúng con nghe Sư Bà kể thì trong mười chùa có một vài chùa có thờ Thập bát La Hán, tức là các vị Thinh văn đệ tử Đức Phật Thích Ca, nhưng các tượng ấy thường là tượng vẽ, hay tượng gổ mít điêu khắc thủ công thô sơ ngày xưa, chúng con được nghe giảng nhiều thuyết. Xin Sư từ bi giảng giải cho chúng con hiểu về Thập bát La Hán thuyết nào cho đúng?

Nói về Thập bát La Hán (18) , thật ra chỉ có Thập lục La Hán (16), mười sáu vị A la hán thì đúng hơn, chuẩn hơn. Sau ngày hòa bình Tăng Ni, Phật tử miền Nam thường nghe nhắc đến tượng Thập bát La Hán chùa Tây Phương,thôn Yên, xã Thạch xá, huyện Thạch thất, Hà nội mỗi tượng cao trung bình 3 mét, tượng nổi tiếng khắp Bắc Trung Nam.
Về sau có mười tám tượng La Hán, mỗi tượng cao 1,6 mét được tạc tại chùa Giác Hải, Quận sáu, Tp.Hồ Chí Minh; năm 1979 dự kiến đem về phụng thờ tại các chùa miền Bắc, nhưng sau đó được thuyên chuyển về tại Tổ đình Linh Sơn, núi Dinh, ấp Phước Thành, xã Tân Hòa, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Rồi từ đó đến nay, nhiều nơi các chùa đặt tượng thờ mười tám vị A la hán, hoặc bằng tượng gổ, hoặc bằng tượng cement, đất nung, gốm sứ Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản… Riêng tượng đất nung nổi tiếng ở Bình Dương, do ông Tăng Minh Phụng, Giám đốc Cty May Minh Phụng cúng dường, hiện vẫn còn phụng thờ tại Quan Âm Tu Viện…
Tượng La Hán được phụng thờ nhiều nơi, đều là mười tám vị, nhưng thật sự chỉ có mười sáu vị.
Mười sáu vị La Hán có mặt ở thế gian để hộ trì chánh pháp. Mười sáu vị nầy là những vị được sinh ra trong thế gian nầy, đi tu trở thành Sa môn chính thức đệ tử của Đức Phật, hay môn đệ của Nhà Phật tu đắc đạo, chớ không phải như truyện tích Trung Hoa cổ cho là mười tám tên ăn cướp thành mười tám vị La Hán, truyện nầy hoang đường lắm các bạn ạ.
Các vị A la hán là những Đại sa môn, Sa môn là những bậc ứng cúng xứng đáng nhận được sự cúng dường và là thầy của của nhơn thiên, nên còn gọi là Thập Bát ứng cúng.
Trong quyển từ điển Phật học Tịnh độ của Đòan Trung Còn có nói về thập lục La Hán, chứ không có thập bát La Hán, đồng thời có nêu danh sách mười sáu vị A la hán âm từ tiếng Pali sang tiếng Việt như sau:

1/. Tân độ la bạt ra đọa xà
2/. Ca nặc ca phạt sa
3/. Ca nặc ca bạt lỵ đọa xà
4/. Tô tần đà
5/. Nakura
6/. Bạt đà la
7/. Ca ri ca
8/. Phạt xà la phất đa la
9/. Thú bát ca
10/. Bán thác ca
11/. La hầu la
12/. Na ca tê na (Na Tiên)
13/. Nhơn yết đà
14/. Phạt na bà tư
15/. A sí ta
16/. Chú đồ bán thác ca.

Chỉ có 16 vị A la hán, không có 18 vị A la hán. Người đầu tiên vẽ tượng 18 vị A la hán là ngài Trương Huyền và Quán Hưu sống vào thế kỷ thứ 10. về sau Sa môn Giác Phạm và văn hào tô Đông Pha có làm thơ tán dương thập bát La Hán.
Ngòai 16 vị La Hán thì ngài Khánh Hữu tôn giả là vị La Hán thứ 17, Tân đầu lư phả là vị La Hán thứ 18. tuy nhiên trên thực tế Khánh Hữu chính là Nan đề mật đa la, tác giả quyển Pháp Trụ ký; Tân đầu lư phả chính là vị đầu tiên trong 16 vị A la hán. Vì không thông kinh điển, không thông tiếng Phạn mà lập thêm như thế, nhưng cũng từ đó mà 16 vị A la hán thành 18 vị A la hán. Từ đời nhà Nguyên về sau, trong chính điện của các Tự Viện đều có thờ 16 vị A la hán, việc vẽ và điêu khắc tượng A la hán thông thường cũng lấy 18 vị A la hán làm chính.
Ngoài ra còn có thêm Ca Diếp tôn giả, Quân Đồ Bác Thán Ca tôn giả thành 18 vị. Các vùng ở Tây tạng có nơi thêm Ngài Đạt-ma-đa-la, Bố Đại Hòa thượng, hoặc thêm hai tôn giả Hàng long, Phục hổ, hoặc thêm hai vị Ma Sa phu nhân và Di Lặc (theo Phật tổ thống kỷ 33).
Dù là 16 hay 18 vị La Hán, thì cũng do các bậc vãng bối của nhà Phật thêm thắt, bớt ra mà thôi, chúng ta Phật tử hậu sanh thừa kế tu hành giữ gìn đạo mạch đều đảnh lễ, thờ phụng 18 hay 16 vị cũng đều là các vị Sa môn đắc đạo, chúng ta vẫn kính lễ tôn thờ.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI CHÍN

48 . NGÀY THỨ BỐN MƯƠI TÁM:
Luân hồi và Số mệnh

Bạch Sư! Xin Sư từ bi giảng giải về Luân hồi và Số mệnh, chúng con xin được học tập?

Sư sẽ vì quý Phật tử mà giảng giải về luân hồi và số mệnh; bài nầy Sư đã giảng vào năm thứ hai, khóa Tư (niên khóa 2000-2004) tại Trường Trung Cấp Phật Học Tỉnh Đồng Nai.

Luân hồi:

Không bao giờ Phật giáo chủ trương sự đầu thai với ý nghĩa: “Linh hồn bỏ xác thân này để chui vào một xác thân khác”. Thuyết tái sanh của Phật giáo, thật ra, không gì khác hơn là Thuyết nhân quả nghiệp báo mở rộng đến phạm vi tinh thần và đạo đức.

Nó không có một điểm nào gọi là đồng với Thuyết đầu thai của Bà La Môn giáo, giữa hai nền giáo lý này có một sự sai biệt, không tùng cái xác thân, sau khi chết, linh hồn ấy bỏ cái vỏ hư hoại để chui vào một cái xác thân mới như ta vứt một chiếc áo cũ để khoát vào một chiếc áo mới.

Thuyết “Luân hồi” của nhà Phật không có một mải mai nào giống với thuyết luân hồi đó của Bà La Môn giáo. Phật giáo không nhìn nhận có một hình thức sinh tồn nào độc lập đối với vật chất trên thế gian này. Tất cả những hiện tượng này cũng như hiện tượng vật lý đều bị thay đổi luôn luôn muốn không cũng không được. Vậy không có một phần tử nào thật sự bất biến để có thể gọi là ngã là linh hồn. Thế làm sao nói có “Thay hồn đổi xác” làm sao nói có “Luân hồi”, trong khi không có cái “ngã” cũng như khi không có cái gọi là “linh hồn”. Ở đây, nên ghi rằng danh từ “tái sinh” không hoàn toàn đúng, vì danh từ ấy chỉ diễn đạt một sự tụng niệm mà thôi.
Chân chính mà nói, giáo lý của Nhà Phật về vấn đề này là Luật nhân quả trong phạm vi luân lý. Vì bất luận một trạng thái vật chất nào hiện ra cũng là kết quả của một trạng thái trước và trạng thái này hiện ra làm nguyên nhân cho một trạng thái sau nữa. Cũng vậy đời sống vật chất và tình cảm hiện nay vừa là kết quả của sự tham sống ích kỷ của những đời sống tiếp dẫn sau khi ta chết. Vì từ giây phút tâm thức này đến giây phút tâm thức khác, không có cái gì gọi là bất biến.
Cái lịch trình tạo và bị tạo có thể ví với sự di động của một đợt sóng ngoài biển cả, trong trường hợp này, quả thật không có một phần nước nào thật sự lướt trên mặt biển để lượt từ đợt sóng này sang đợt sóng khác.
Cũng thế, theo Phật Giáo, không có một cái ngã hay một linh hồn chạy lướt trên mặt biển luân hồi, mà chỉ có từng đợt sóng, tùy tâm tánh và nghiệp lực của nó mà hiện ra, ở đây thì như là người, ở chỗ kia thì như là thú, ở chỗ khác nữa là chúng sanh vô hình. Do đó chúng ta gọi là đời sống, thật ra chỉ là một dòng diễn tiến của hiện tượng vật chất (sắc) và tinh thần (tâm), dòng ấy chảy mãi không ngừng, từ rất xa xưa, trước khi chúng ta sanh ra trong đời này, và nó sẽ kế tiếp chảy sau khi chúng ta nhắm mắt theo dòng thời gian vô tận.
Cái nhóm năm uẩn mà người ta thường nhận lầm là con người, không thể nào là một cái ngã chân thật được, và không khác gì một ảo tưởng.
Đức Phật dạy: “Như Lai đã giải thoát mọi lý thuyết, ví Như Lai đã biết thế nào là hiện tượng hữu vi (sắc), thế nào là sự sanh thành hoại diệt của nó.
Như Lai đã biết thế nào là những hành động của tâm (hành), thế nào là sự sanh thành và sự hoại diệt của chúng.
Như Lai đã biết thế nào là biết (thức), thế nào là sự sanh thành và sự hoại diệt của nó.
Số mệnh:
Phật nói: “Đừng tin ở lời người nào đã nghe thấy lời nói lại với chúng ta. Đừng tin ở sự truyền tụng, ở những nghị luận hợp lý, ở những bóng dáng bề ngoài, ở những quan điểm được đời ái mộ, ở những ước đoán thuận lý, và cũng đừng tin ở nơi ta, bởi lẽ ta là Thầy của người.
Bởi vậy, người đệ tử chân chính của Đức Phật rất xa tối nhắm mắt cúi đầu tin liều. Đó là một nhà tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng theo cái nghĩa cao cả nhứt của danh từ này. Người đệ tử chân chính của Đức Phật không lạc bước trong rừng tín điều tiêu cực lẫn tích cực, vì họ biết rằng những quan niệm mà gốc rễ nằm trong tình trạng mù quáng và trong sự tự mình dối gạt lấy mình mà thôi.
Số phận của chúng ta - Đức Phật đã dạy rành như thế - không phải do sự may rủi mù quáng định đoạt, cũng không phải tùy sự hành động độc đoán của một đấng tạo hóa hay tùy sự ban thưởng hoặc hình phạt của một vị thần linh nào, mà chắc chắn là do những hành động “nghiệp” của chúng ta đã gây ra trong những đời trước.
Đức Phật nhìn những người bệnh hoạn, cùi phong, đau khổ. Đức Phật thấy rằng sự khốn khổ và đau đớn của họ chỉ là kết quả của nghiệp mà họ đã gây ra từ những đời trước. Đức Phật xem xét kẻ giàu, người nghèo, người sướng, kẻ khổ và bất luận chỗ nào Đức Phật cũng đều tìm thấy dấu vết của Luật vay trả, của Luật nhơn quả, Luật báo ứng và của Pháp, Pháp ấy cái đạo lý bao trùm vũ trụ ấy, và do Đức Phật tìm ra, được tóm tắt trong bốn chân lý cao cả như sau:
1. Chân lý về sự thống ngự của đau khổ
2. Chân lý về nguồn gốc của đau khổ
3. Chân lý về sự diệt khổ
4. Chân lý về con đường dẫn dắt đến sự diệt khổ.
Nói đến Bát chánh đạo là nói đến trung đạo mà Đức Phật đã giảng dạy như sau:
Con người mà mắc trong lưới mù quáng rồi, thì đừng lấy sự học đọc bề ngoài các Thánh kinh, đừng lấy sự cúng tế thần linh, cũng như đừng lấy sự nhịn đói sự ngủ dưới đất, thức khuya mệt nhọc, hay lấy sự đọc đi đọc lại lời cầu nguyện mà trở thành trong sạch được. Và cũng không phải lấy sự cúng chư Tăng, sự hành phạt thể xác, sự lễ bái tụng niệm bề ngoài mà làm cho con người trở nên thanh tịnh được, nếu trong tâm còn những ham muốn ích kỷ.
Cũng chẳng phải vì ăn thịt, ăn cá mà con người trở nên bất tịnh mà vì bởi say đắm, thèm thuồng, tự hào, khinh bỉ người khác với những ý muốn bất chánh, ác độc cho nên con người mới trở thành không trong sạch.
Có hai cách thái quá, một đằng là đắm mình trong dục lục, một đằng khác là đắm mình trong lối tu ép xác. Như Lai đã gạt bỏ hai cái thái quá ấy và tìm ra con đường trung đạo, con đường làm sáng mắt kẻ mù, rồi đưa họ đến chỗ an lạc, huyền diệu, giác ngộ và giải thoát.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.
49 . NGÀY THỨ BỐN MƯƠI CHÍN:

Nghiệp báo

Sư sẽ tiếp tục giảng về giáo lý nghiệp báo?

Nguồn gốc của nghiệp :
Vấn đề khởi thủy của con người, của vạn vật hay của sự sống nói chung là một vấn đề mà tôn giáo và khoa học từ xưa tới nay, chưa giải quyết dứt khoát với những lý lẽ hay những chứng minh cụ thể khả dĩ thỏa mãn tánh hiếu kỳ của chúng ta. Trong cuộc phiêu lưu vô tận mà ta cùng vô lượng chúng sanh đang lang thang cơ cực đây, ta phải làm thế nào cho phiền muộn này biến thành an vui và bước lần đến siêu thoát.
Đức Phật dạy: “Này các tỳ kheo: Như Lai nói tát ý là nghiệp” tát ý bắt nguồn sâu xa trong vô minh và ái dục. Còn vô minh, còn ái dục, còn ham muốn, thì mọi hành động, lời nói, tư tưởng đều là nghiệp.
Tuy nhiên, Phật giáo không lấy sự giải thích hay giải quyết vấn đề siêu thực như là vấn đề khai tịch và căn nguyên của vũ trụ làm trọng tâm, cũng không đòi hỏi hoặc bắt buộc những người theo giáo lý của Đức Phật phải hiểu như thế nào? Về nguồn gốc của nghiệp. Giáo lý nhà Phật là một giáo lý thực dụng, căn cứ trên mục tiêu thực tế. Nhận định nhân sinh hữu khổ, thì Phật chỉ dẫn cho con đường đi đến sự diệt khổ.
Khổ là thực tại, phương châm diệt khổ phải là thực tế, thoát ly khổ cũng là cứu cánh thực tiễn. Ngoài ra, chỉ là những câu chuyện vui trí mà thôi, không bổ ích chi cho đời sống đạo hạnh cả. Theo giáo lý của Đức Phật, thì mọi vật trong vũ trụ đều thuộc vào trong bốn loại sau đây:
1. Loại hữu thỉ thì hữu chung: Như khi ta đóng xong một cái bàn là bắt đầu có cái bàn, và hai là cái bàn hư nát có sự chấm dứt cái bàn.

2. Loại hữu thỉ vô chung: Như con số 1 là bắt đầu của những con số, sau con số 1 ta có thể đếm mãi mãi không cùng tột bao giờ cũng như khi ta chia con số 10 cho 3, ta chia mãi không cùng tột bao giờ.
3. Loại vô thỉ hữu chung: Nghĩa là không có chỗ bắt đầu mà lại có chỗ chấm dứt như hột xoài chẳng hạn. Hột xoài là do cây xoài sanh ra, cây xoài này là do cây xoài trước sanh ra. Cây xoài trước này là do cây xoài trước sanh ra nữa, cứ như thế phăng lần lên mãi không cùng tức là vô thỉ. Nhưng nếu ta đập nát hột xoài đi thì sẽ không còn cây xoài nữa, như vậy là hữu chung.
4. Loại vô thỉ vô chung: Không chỗ bắt nguồn mà cũng không có chỗ cùng cùng tận như là không gian, thời gian ấy là Niết Bàn.
Trong vũ trụ, mọi vật đều thuộc về một trong bốn loại kể trên, vậy ta không lạ gì nếu cái nghiệp thuộc về loại vô thỉ hữu chung.

Nghiệp báo là gì?
Nghiệp báo là lý nhân quả - Nghiệp báo và tái sinh là hai giáo lý căn bản của Phật giáo.
Nếu phải giải thích rộng rãi thì nghiệp là hành động mà trước hết và là điều quan trọng, nghiệp là do tâm, tức là ý muốn tốt hay xấu, thiện hay ác, trong hay đục, chính tâm tạo ra nghiệp, nếu không có tâm trong việc làm thì không có nghiệp. Nghiệp của ta ngày nay là tổng hợp nghiệp quá khứ với hiện tại mà ta đã và đang tạo ra trong kiếp này nữa. Cái tiền nghiệp từ bao kiếp trước đưa lại cho ta ta phải lãnh trọn, dù muốn, dù không lành như một di sản bắt buộc để cộng vào với gia tài hiện nghiệp.
Nhưng cái hiện nghiệp trong kiếp người của ta, ngày nay khác hơn là cái tiền nghiệp là ở chỗ ta hoàn toàn làm chủ nó, nghĩa là ta có trọn quyền chuyển nó về đâu tùy ý muốn của ta tùy tâm ta.

Cái mà ta gọi là Ngã, chắc chắn không phải chỉ là cái thân xác cao, thấp, mập, ốm, này thôi, mà bên trong lại còn có cái tâm. Vậy ta là sắc và tâm kết thành, bị chi phối bởi lực kích thích nội giới và bị ảnh hưởng ngoại cảnh. Phần làm chỗ tác động cho kích thích tức là đã thọ cầm rồi. Thì do đó cái vô minh bao bọc làm cho chúng ta không thể nhận chân sự vật được. Đó là miếng đất dọn sẵn để cho nghiệp thức mỗi ngày mỗi mọc rậm thêm. Dĩ nhiên, có thức là có phân biệt đúng hay sai, tốt hay xấu, cao hay thấp...v.v thế là thức biến thành vô lượng hiện tượng. Vậy vô minh là điều kiện đầu tiên cho sự gia tăng chồng chất nghiệp chướng.
Bao giờ chúng ta còn quanh quẩn trong vô minh tức là không nhận thức được chân tướng của cái ngã, của sự vật, thì hẳn là chúng ta còn gây giống cho nghiệp.
Nói đến nghiệp, chúng ta có thể đặt câu hỏi: Nghiệp chướng trú ngụ ở đâu? Không thể nói: Nghiệp chướng được lưu trữ ở một nơi nào trong cái thức biến dịch hay trong nội bộ phận nào của thể xác. Tùy thuộc tâm và sắc, cái nghiệp chướng phát hiện khi DUYÊN đến, cũng như những trái xoài kia không thể nói là chúng được chứa đựng ở một chỗ nào nhứt định trong thân cây xoài, mà phải nói là chúng tùy thuộc cây xoài, khi mùa đến là chúng hiện ra.

Định luật của nghiệp báo:
Trong “Đối Pháp Luận” có phân biệt 5 định luật chi phối sự tiến triển của vật chất và tâm linh.
1. Định luật liên quan đến sự tiến triển của vật chất không có cơ thể, như là hiện tượng gió mưa, thời tiết.
2. Định luật chi phối sự tiến triển của vật chất hữu cơ như là cây cỏ và của những vật chất có tế bào tức là những luật về âm dương, trống mái.
3. Định luật của quý phạm như là hấp dẫn lực, di chất phản ứng...
4. Định luật tâm lý như là lịch trình diễn tiến của tâm thức sự sanh, sự diệt của tâm niệm, những cơ cấu tác động của tâm linh.
5. Định luật hành và quả, hay là định luật nhân quả, nhân gieo thì quả trổ, nhân lành đem lại quả tốt, nhân ác đem lại quả xấu. Đó là sự tự nhiên phải như vậy chớ không phải là do một vị thần linh nào thưởng hay phạt. Định luật nhân quả tự nhiên tác động không cần đến sự kích thích muốn hay không muốn ở bên ngoài, đó là luật chung của vạn vật trong vũ trụ. Cũng như bốn định luật trên, định luật nhân quả không phải là một định luật không thể cưỡng lại được bởi vì chúng ta có thể chuyển nhiều hướng cho nó tùy theo ý muốn của chúng ta.
Cũng như đối với định luật nói trên và trái với định luật này. Có hạng người nhờ công phu luyện tập, họ có thể tắm nước sôi hay vùi mình trong tuyết hoặc chôn đầu, chôn thân dưới đất hàng tuần, hàng tháng.
Trên thế gian này, cũng như trong ta bà thế giới, không có một nơi nào mà chúng ta tránh khỏi tác động của nghiệp báo. Nhưng mặc dù vậy, chúng ta không phải thọ lãnh trọn vẹn những cái gì mà chúng ta có thể mang theo trong nghiệp chướng của chúng ta. Nhờ sự luyện tập, tu tâm dưỡng tánh mà một người trước kia là đê hèn, độc ác nay có thể trở thành một người đạo hạnh thanh cao.
Luôn luôn ta đang trở thành một hiện thể nào đó và hiện thể này như thế nào là tùy tư tưởng và hành động của ta.
Tóm lại, luật nhơn quả hay luật nghiệp báo có tự nhiên nó có và tác động của nó cũng tự nhiên theo luật tuần hoàn tác động của nhân và quả. Điều mà ta cùng nhấn mạnh là: Ta có thể chuyển chiều hướng cho nó tùy hành động và tư tưởng của ta. Đó là điểm chính. Là điểm mà ở đó ta hoàn toàn tự do, tức là ta làm chủ hành động và tư tưởng của ta vậy.
Thuyết định mệnh và nhân quả:
Phật ngôn có ghi: “Trong sạch hay không trong sạch đều do nơi ta cả”. Khi ta đau ốm ta phải uống thuốc để lành bệnh, chớ ta không thể nói: Nếu cái nghiệp của tôi là mạnh thì tôi sẽ mạnh, nếu cái nghiệp của tôi phải bệnh là tôi phải bệnh, bác sĩ không làm gì được. Nếu nói như vậy tức là tin nơi tiền định.
Phật giáo nói: “Nghiệp không phải là định mạng cũng không phải tiền định, nghiệp là hành động, báo là cái quả, là cái phản ứng của hành động ấy không có định mạng do một thần linh nào đã phán ra rằng: “Phải như vậy, phải như vậy”, và bắt buộc chúng ta phải thọ lãnh mạng lệnh đó, đau khổ hay an vui. Chính hành động của ta đã gây ra phản ứng đó, và đó là một định luật tự nhiên: Luật nhân quả.
Như vậy, giáo điều, nghiệp báo của Nhà Phật khác hẳn với “Thuyết định mạng”, Thuyết này cho rằng trên đời mọi việc đều đã được định đoạt trước ở đâu đâu số mạng của mỗi người đều được ghi sẵn rồi, tuyệt đối không ai sửa đổi được. Thuyết tự do ngược lại, cho rằng trên đời, mọi việc ta được tự do hoàn toàn thao túng, làm hay không làm đều tùy nơi ta cả.
Phật giáo không chủ trương một ý niệm tiền định tuyệt đối, mà cũng không tin có tự do hoàn toàn, nghĩa là Phật giáo cho rằng: Ta vừa được tư do vừa bị chi phối nhưng không hoàn toàn bị chi phối cũng như không hoàn toàn được tự do. Vậy chỗ chủ yếu vẫn là: Cái tự do mà ta được tuyệt đối sử dụng thì nằm trong vấn đề gây nhân tạo nghiệp , và dứt nghiệp tránh nhân.
Còn cái định luật diễn ra ngoài sự tự do định đoạt của nó lại là cái quả phải trổ ra đúng thì giờ của nó ngoài ý muốn của ta. Quả tốt cũng như quả xấu, đều do nhân tốt hay xấu mà ta đã tự do gieo ra, nhân quả là lý nhứt định chi phối nghiệp ấy.
Sự chênh lệch giữa những cá nhân:
Phật giáo giải thích sự chênh lệch, sự sai biệt giữa người với người trong xã hội về thể xác, tính tình, trí huệ, nết na, địa vị... là đều do chỗ sai khác trong nghiệp tập của mọi người. Tuy nhiên, Phật giáo nói rằng nghiệp chướng là một trong những nguyên do chính của sự sai biệt chênh lệch ấy, chớ Phật giáo không nói nghiệp là do duy nhứt, do đó tất cả cái gì cũng do nghiệp mà ra.
Bao nhiêu khuynh hướng tích trữ trong cái nghiệp mà chúng sanh đã gây ra từ bao kiếp trước sẽ đóng một vai tuồng tối quan trọng về đặc tính thể chất và tinh thần của Bào Thai (Chánh Báo). Ngoài ra, còn có những yếu tố khác (Y Báo) tạo ra sự chênh lệch nói trên như là : Đất đai, nơi sanh, nơi sống, hoàn cảnh gia đình, học đường, xã hội v.v...
Tóm lại, lý nghiệp báo, cũng như định luật vật lý, là một định luật tự nhiên, Cũng như điện lực sẵn có trong vũ trụ, nếu có đủ điều kiện thì nó phát sanh liền. Từ kiếp xa xưa trong quá khứ, điện lực vẫn âm thầm chuyển vận tự nhiên, khi ta đã tạo ra nó, tùy ý người sử dụng, muốn thêm độ lên hay bớt độ xuống, muốn cho nó đi về đâu, muốn dùng nó vào công việc gì hoặc dứt hẳn luồng chảy của nó, thảy thảy đều tùy người sử dụng.
Ngược lại cũng có thể ví với một dòng sông trường lưu bất túc, mỗi hành động, mỗi tư tưởng của ta, dù muốn, dù không, đều như những phần tử nước mà ta rót vào sông ấy.
Lý nhân quả, Phật đã vạch rõ ràng: Dòng nghiệp nằm trong nhân quả. Phật là người chỉ đường cho ta. Đi cùng không đi, tiến cùng không thoái, bước ra cũng không bước ra khỏi chỗ âm u, đau khổ để đi đến chỗ sáng sủa, chỗ thoát ly tất cả những điều này là chuyện riêng của mỗi người vậy.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.


50 . NGÀY THỨ NĂM MƯƠI:

Quả vị tu chứng của Cư sĩ

Bạch Sư! Chúng con đọc trong sách “Phật giáo Nam tông”, có bài viết: "…người cư sĩ chỉ tu chứng quả đến bậc An na hàm là cùng…”. (Phật lý căn bản Bắc tông, Thừa và lịch trình tu chứng, HT Thích Huyền Vi biên sọan, trang 111). Chẳng lẽ không có sự tiến hóa nào cho chúng con hay sao? Chúng con tụng đọc trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Đề Bà Đạt Đa thì biết được một vị nữ nhân như Long Nữ mới Tám tuổi cũng tu thành Phật như mọi người, thậm chí nhanh hơn sự nghĩ suy của ngài Tôn giả Xá Lợi Phất… Chúng con nghĩ người trẻ trung như Long Nữ mà còn tu thành Phật, hà huống chúng con lại tu không thành Phật hay sao? Xin Sư giảng giải cho chúng con được thông suốt về chủ trương của Đạo Phật?

Theo giáo nghĩa Thượng Tọa bộ (Nam tông) Sách Phật dạy: “…người cư sĩ chỉ tu hành đắc đạo đến A na hàm…”, đây là theo ý chỉ của Phật Thích Ca… khi sinh tiền, chính Ngài cũng phải xuất gia mới thành Phật, chứng tam minh dưới gốc cây Tất Bát La, ở Gaya cách đây 2634 năm. Đức Phật Thích Ca là vị Phật đắc đạo giữa cuộc đời, là vị Giáo chủ của thế giới ta bà, còn lại chư vị Sa môn đệ tử đức Phật thì đắc đạo ở mức độ Thinh văn A La Hán, không tính kể đến chư vị cổ Phật và hàng Bồ tát đại thừa ngọai hộ. Quả A na hàm thì cũng là quả vị đắc đạo đó, nhưng còn dư nghiệp tham sân si, mang thân tứ đại, khi nào xả bỏ không còn thân tứ đại tham sân si thì chứng quả A la hán, nhưng cũng không dễ tu đâu các bạn ạ! Dù là Phật, hay Thinh văn A la hán, hay A na hàm thì người tu đắc đạo cũng phải là người giác ngộ cụ thể, nghiệp dứt tình không, lữa lòng tham sân si tắt hẳn, phá vỡ vô minh mà bước ra khỏi nẽo sanh tử luân hồi, người ấy là Phật hay Thinh văn A La Hán, hay A na hàm. Người cư sĩ còn gia duyên bận buộc nên việc tu hành bê trể, còn phải lo cho gia đình ông bà cha mẹ, chồng vợ con cái nên việc đắc đạo ở trình độ cao cấp như Phật hay A la hán thì chưa được chớ không phải không được, nên sách dạy “người cư sĩ tu đến A na hàm…” là vậy. Nếu người cư sĩ muốn tu hành giải thóat thành Phật hay vị A la hán thì phải tu tĩnh không tham sân si, lìa bỏ sự nghiệp gia đình thân bằng quyến thuộc, gia can tài sản… thì được như ý nguyện.
Theo chủ trương của Đại chúng bộ (Bắc tông) Đức Phật thấu suốt sự việc hoằng hóa đương nhiên lúc nào cũng ảnh hưởng đến từng thời kỳ con người tiến bộ dân trí cao, nên hai mười năm đầu Phật hoằng hóa thuyết pháp dạy tu pháp Tiểu thừa cho người mới nhập môn tu từ thấp lên cao; ở thời kỳ mọi người theo Phật đông, Phật dạy pháp tu Trung thừa phương quảng; cho đến thời kỳ dân trí tiến bộ, trình độ văn hóa cao thì Phật dạy pháp Đại thừa phương quảng, Ngài thông suốt như thế nên đã sớm đem bức thông điệp đại thừa giáo, tuyên bố giữa lòai người: "...tất cả chúng sanh đều có đủ Phật tánh, có đủ khả năng giác ngộ, khả năng đào tạo cho mình và người khác một nhân cách siêu việt...”. Theo sự tiến hóa, thật sự thì khả năng giác ngộ ấy có sẵn trong tất cả mọi loài và nhân cách siêu việt ấy vẫn căn cứ nơi nhân sinh mà thực hiện, đi đến quả vị giác ngộ hoàn toàn, đó là mục đích cứu cánh của nhân sinh, trong luân lý gọi là chí thiện. Đi đến chỗ chí thiện, đó là nghĩa sống của con người.
Những thuyết minh về mục đích cứu cánh của phái Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ có khác nhau. Thượng tọa bộ để thành lập thuyết cứu cánh, đã đứng trên phương diện tiêu cực, trong khi Đại chúng bộ hoàn toàn đứng về phương diện tích cực.
Mới nghiên cứu ta thấy hình như có sự tương phản và cũng do đó mà có người cho rằng Phật giáo chủ trương yếm thế. Thực ra, không có sự tương phản. Tiêu cực khác với tích cực . Nhưng tiêu cực mà đến cùng cực thì lại là tích cực cũng như bi quan mà đến cùng cực thì lại là lạc quan.

Đạo Phật chủ trương “Giá tình biểu đức” nghĩa là ngăn ngừa vọng tình mà phát triển tánh đức. Tích cực tức là ngăn ngừa vọng tình, mà tích cực là phát triển tánh đức vậy. Do tiêu cực mới biết dục vọng là khó đi đến chỗ giải thoát dục vọng, ấy là ngăn ngừa vọng tình. Do giải quyết đi đến chỗ hóa độ và làm lợi ích cho xã hội, nhân sinh, ấy là phát triển tánh đức. Nghĩa lý đại thừa và tiểu thừa được dung hòa ở điểm này.
Đứng trên phương diện Thượng tọa bộ, chúng ta phải công nhận Phật giáo có thể gần như một chủ nghĩa yếm thế. Thực vậy, Thượng tọa bộ giáo chủ trương yếm thế, phải nói thẳng như thế để khỏi bị người ta cho là nói thêm, nói bớt. Nhưng điều cần thiết là phải tìm hiểu cho rõ ràng tính cách yếm thế đó.
Vật chất là những gì phải tan rã biến hoại, lục dục chỉ gây nên đau khổ, vạn hữu luôn luôn biến dịch. Tìm trong cảnh đời những sung sướng giả tạm, những đau khổ trá hình, đó là do trí óc vô minh, cố chấp. Kinh Pháp Hoa có dạy: “Ba cõi giống như nhà lửa, bao nhiêu là khổ não thật đáng sợ hãi, các kinh điển tiểu thừa lại đề cập đến chuyện khổ nhiều hơn. Dù con người tu nhơn tích đức được quả báo sanh lên các cõi trời nhưng cũng chưa được giải thoát vì vẫn còn ở trong vòng đau khổ.
Nhưng làm sao diệt khổ đặng được an vui? Chỉ có một cách là nhập vào Niết Bàn tịch diệt, đó là đại khái của tinh thần bi quan tiêu cực của Phật giáo tiểu thừa. Nghe như thế mà ai chẳng bảo là Phật giáo chủ trương xa lánh cuộc đời thực tại, vì muốn hết khổ phải nhập Niết Bàn. Niết Bàn của tiểu thừa giáo có nghĩa là trạng thái diệt độ, không còn cái gì nữa. Kinh Pháp cú có câu: “Vì ham vui mà lo, vì ham vui mà sợ, không ham vui thì còn gì mà lo, còn gì mà sợ? Vì tham dục mà sợ, không tham dục thì còn gì mà lo, còn gì mà sợ? Chỉ có Niết Bàn là nơi giải thoát, nhập Niết Bàn là đi đến chỗ cứu cánh”.

Người theo chủ nghĩa tư lợi vì không có năng lực lợi tha. Quan niệm về khổ và Niết Bàn của Đại chúng bộ thì nhàm chán dục vọng không phải là chán đời, chỉ có dục vọng mới đáng chán vì chúng gây ra đau khổ muôn loài. Đời không đáng chán, đời đáng yêu chuộng, thế nhân đáng thương xót. Không nhàm chán dục vọng, cứ mãi quay cuồng trong hạnh phúc giả ảo thì làm thế nào tự gở ra khỏi đau khổ để tiến đến chỗ an lạc của chính riêng mình chớ đừng nói chi đến sự xây dựng hạnh phúc cho muôn loài? Niết Bàn không phải là chỗ an nghỉ vĩnh viễn, đó mới chỉ là trạng thái giải thoát cá nhân , sự giải thoát ấy chưa hoàn toàn, cần phải tiếp tục tiến thêm lên.
Con người vì đã trải qua những đau khổ, dục lạc và tham vọng gây ra. Nên đem tâm nhàm chán đời sống dục lạc. Con người lúc ấy nhìn chúng sanh lăn lộn trong tham dục bằng cặp mắt bi quan, thương xót. Do bi quan khởi tâm hoài nghi, do hoài nghi nên mới đến chổ giải thoát. Được giải thoát, con người sẽ thấy sự sanh tử chỉ là những hình thức giả hữu của vũ trụ. Tham cứu đến bản thể vạn vật, thấu rõ chân lý của vạn hữu, con người sẽ không thấy có sanh tử, có biến đi, và biết rằng tất cả đều là thường trụ. Thấu được chân lý ấy thì phiền não tức Bồ đề, sanh tử tức Niết Bàn, thiện ác không phải là hai tà và chánh đều là một, chân lý hiển hiện ngay ở sự thật, đạo thấy rõ ở muôn ngàn hiện tượng minh tức là vô minh, vô minh tức là minh, đây mới thật là cảnh giới chân thực viên minh.
Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tánh của tất cả pháp, tướng của tất cả pháp, có Phật hay không có Phật, tất cả đều là thường trú…”
Kinh Viên Giác dạy : “Tất cả các phiền não chướng ngại đều là tri giác cứu cánh.
Kinh Pháp Hoa dạy: Hai môn chân như Sinh và Diệt không rời nhau, nếu đứng về chân như thì tuy thanh tịnh bất biến mà vẫn tùy duyên hữu biến còn đứng về sinh diệt thì tùy duyên sai biệt mà vẫn như bất biến”.
Tinh thần nhập thế có tính cách triệt để xã hội ấy, tinh thần tích cực hoàn toàn ấy, thật khác xa với tinh thần bi quan tiêu cực vậy.
Tóm lại, cứu cánh tích cực của Phật giáo là tự giác rồi giác tha cũng như hoa sen sanh trong bùn, nở trên bùn mà vẫn không dính bùn. Cảnh giới giác ngộ không rời cảnh giới đau khổ và những phiền não thực tại, vọng tưởng điên đảo.

Người cư sĩ, nữ giới tu thành Phật không?
Phật dạy: “…Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Đức Phật là Phật đã thành, chúng sanh là bậc sẽ thành Phật….” Ai khéo tu thì được, ai vụng tu thì sa đọa. Bồ tát muốn tu thành Phật phải trải qua ba vô số kiếp, bước qua năm mươi hai lớp nhơn quả tướng tu hành, nên chúng sanh nào dù cư sĩ hay nữ giới phát tâm tu hành tinh tấn, giữ giới tinh nghiêm, một lòng cứu giúp chúng sanh, không còn phân biệt thân sơ quen lạ, lo cho chúng sanh chung, không còn lo cho gia đình, vượt bến tử sanh một lòng vì chúng sanh mà tìm chân lý giải thóat những khổ đau đói nghèo, nô lệ trong cuộc đời cho họ thì đắc đạo tại thế như Phật Thích Ca. Sự đắc đạo thành Phật là do sự giác ngộ cao độ của người tu; những ai giác ngộ cao độ thì thành Phật, ai không giác ngộ cao độ thì không thành Phật; nên không còn phân biệt các tướng nam tướng nữ già trẻ có tu thành Phật hay không nữa!
Theo giáo nghĩa đại thừa chỉ thì sự tu hành đắc đạo căn cứ vào sự giác ngộ của từng cá nhân, việc thành Phật không có cấp bậc như thế gian, người xuất gia tu thành Phật theo thứ bậc xuất gia; người cư sĩ tu hành thành Phật theo thứ bậc cư sĩ; chớ không phải người cư sĩ tu hành lên cấp bậc xuất gia rồi mới tu thành Phật.

Người tu Phật, khi đã được giác ngộ có trí tuệ, học hiểu pháp môn “tứ tất đàn” thế giới tất đàn, các vị nhơn tất đàn, đối trị tất đàn, đệ nhất nghĩa tất đàn… khéo biết tâm tưởng của chúng sanh là giả hợp, có thịnh suy, sanh trụ dị diệt, duyên hợp huyễn có, vô thường khổ không vô ngã các pháp vốn không tự tánh… rồi mới tùy theo căn cơ của họ mà giáo hóa cho được giác ngộ thành Phật, đó là từ diệu dụng giác ngộ đi đến diệu dụng giác tha độ đời chung cho Đại chúng bộ, Thượng tọa bộ trong giáo pháp nhà Phật là vậy.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Giáo Chủ Thọ Quang Thể Tướng, Vô Lượng Vô Biên Từ Thệ Hoằng Thâm, Tứ Thập Bát Nguyện Độ Hàm Linh, Đại Từ, Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Như Lai Biến Pháp Giới Tam Bảo.

Đồng nai,Việt nam,cuối mùa Thu, năm Canh Dần
ngày 10 tháng 10 năm 2010
Hòa Thượng Thích Giác Quang
biên soạn

mời các bạn xem tiếp Tập II vào cuối mùa thu năm Tân Mão (2011)
(ngày niệm Phật thứ năm mươi mốt…)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét