Bố bảo lúc giận có thể cãi nhau nhưng đừng
thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Cãi nhau không có nghĩa con dùng những
lời lẽ xúc phạm dành cho người mà con sẽ đầu gối tay ấp cả cuộc đời .
Cãi nhau có nghĩa là nói hết những gì trong lòng để 2 Vợ Chồng con hiễu
lẫn nhau, thông cảm cho nhau, xóa đi hết mỏi hiểu lầm. Bản thân con còn
chẳng hiểu được con, thế nên đừng mong người khác phải hiểu con khi con
cứ giữ trong lòng.
Bố bảo cãi nhau với phụ nữ thì đừng có nói nhiều. Chỉ cần nói vừa đủ. Độ khuếch tán âm thanh của đàn ông chẳng bao giờ bằng phụ nữ. Một người vợ chân chính sẽ đủ tinh tế để biết khi nào cần nói, lúc nào nên im lặng - ngay cả trong khi nóng giận nhất. Bố bảo nhìn vào chiếc giường là biết cuộc sống vợ chồng có hạnh phúc hay không. Dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, đừng mang chăn gối ra sofa ngủ, cũng đừng quay lưng vào người vợ của con, hãy ôm cô ấy vào bờ vai và khuôn ngực nóng hổi của con. Tất cả sẽ qua đi, chỉ tình yêu còn lại. Bố bảo dù ở ngoài XH, con có là xe ôm, hay ông lớn, ông bé, thì về nhà con vẫn là trụ cột của gia đình. Vợ con có thể là người phụ nữ rất đảm đang, cô ấy có thể đóng đinh, sửa ống nước hay tháo quạt trần, nhưng hãy làm việc đó – trừ khi con quá bận. Nó vừa thể hiện sự công bằng, vừa thể hiện sự chia sẻ vợ chồng. Bố bảo sau khi kết hôn sẽ hơn một lần con cảm thấy hối hận, thậm chí có mối quan hệ ngoài chồng ngoài vợ. Mỗi lần như vậy con hãy nhớ rằng : Người bồ hiện tại yêu con mười phần, người vợ hiện tại cũng đã từng yêu con mười phần, nhưng ( như một số blogradio đã nói) khi bước vào hôn nhân, vai trò của phụ nữ càng trở nên phức tạp hơn, ngoài tình yêu họ còn có cả trách nhiệm. Vì vậy khi đã kết hôn, người ta sẽ không thể yêu con mười phần được nữa. Họ phải dành một phần trong số đó để yêu bố mẹ chồng, rồi lại một phần để yêu bố mẹ họ, còn thêm một phần nữa cho con cái. Và như thế, mười phần tình yêu khi bước qua hôn nhân chỉ còn lại bảy phần. Bằng cách này hay cách khác, 3 phần con mất đi từ người vợ sẽ được nhận lại gấp đôi từ gia đình và con cái của con. Và một lí do nữa, người bồ sẽ chỉ đem lại cho con hạnh phúc nhất thời, còn người vợ sẽ đem lại cho con hạnh phúc bền vững. Thật tuyệt vời phải không? Bố bảo thời kì mang thai là thời kì khó khăn nhất đối với người phụ nữ. Là bởi vì muốn có được thiên thần thì phải qua thời gian khổ cực. Chính vợ con là người đã gánh vác sự khổ cực đó để đem lại niềm vui cho cả nhà. Thế nên đừng thở dài khi thấy vợ con chẳng còn được vẻ đẹp thời thiếu nữ, hay cũng đừng tức giận khi con nằm cạnh vợ mà chẳng thể làm gì. Hãy cùng cô ấy cảm nhận niềm vui của những ông bố bà mẹ, chắc sẽ thú vị lắm. Bố bảo chuyện mẹ chồng nàng dâu là chuyện muôn thuở, giống như bệnh tiền mãn kinh vậy. Thế nên con hãy là sợi dây kêt nối họ – hai người phụ nữ yêu con nhất trên đời. Đừng để mẹ cảm thấy bà đã mất con trai, và vợ con cảm thấy chồng mình là người nhu nhược. Như thế mới là đàn ông chân chính. Bố bảo rằng đừng tưởng người mẹ mới dạy dỗ được con. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trong thời gian người mẹ mang thai thì người cha mới là người ảnh hưởng lớn nhất đến tình cảm và sự phát triển của trẻ. Con có thể không là người bố tuyệt vời nhất thế giới, nhưng hãy là người bố tuyệt vời nhất trong lòng những đứa con. Bố bảo ” Phụ nữ là để yêu, không phải để hiểu”. Nhưng nếu không hiểu, thì con chẳng thế yêu. Hãy hiểu họ bằng chính trái tim mộc mạc của con. Bố bảo ” quá khứ là thứ đã qua, hiện tại mới là cuộc sống”. Nếu quá khứ của vợ con có lỗi lầm, đừng chấp nhặt, cũng đừng đay nghiến, vì đồng ý lấy vợ, là con đã chấp nhận tất cả những gì thuộc về cô ấy. Hãy khoan dung và độ lượng. Dù không nói ra nhưng chắc chắn, cô ấy sẽ yêu con đến suốt cuộc đời – một tình yêu bao gồm cả sự biết ơn và tôn trọng. Và cuối cùng bố bảo, cuộc sống luôn thay đổi, hãy biết trân trọng từng ngày. |
Tìm kiếm Blog này
Thứ Tư, 18 tháng 7, 2012
Bố bảo con trai trước khi lấy vợ
Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012
Không thấy ai cả
Ở nước Tề có anh chàng rất thèm kiếm được vàng. Một hôm, anh ta mặc áo quần, đội mũ tử tế đi đến chợ bán vàng, thừa lúc chủ hiệu sơ ý, anh ta quào hốt một số vàng bỏ túi rồi quay trở về, giữa đường bị quan tuần bắt lại. Quan hỏi anh ta:
- Mọi người ở đó, tại sao anh dám quào hốt cướp số vàng của người ta?
Anh chàng trả lời:
- Khi tôi thò tay quào hốt, thì trước mắt tôi chỉ thấy vàng, ngoài ra không còn thấy ai cả!
(chuyện ngụ ngôn sưu tầm)
Tình Thương, Giàu Sang và Thành Đạt
Một người phụ nữ vừa bước ra khỏi nhà thì nhìn thấy có 3 cụ già râu tóc bạc phơ đang ngồi trên phiến đá ở trước sân nhà. Bà không quen biết họ, nhưng với con người tốt bụng, bà lên tiếng nói: "Tôi không quen biết các cụ nhưng chắc là các cụ đang đói bụng lắm, vậy xin mời các cụ vào nhà tôi dùng một chút gì cho ấm bụng nhé... ".
- Ông chủ có ở nhà không thưa bà.... Một cụ cất tiếng ái ngại hỏi.
- Dạ thưa không, nhà tôi đi làm chưa về. Người phụ nữ trả lời.
- Thế thì chúng tôi không thể vào nhà của bà bây giờ được, bà ạ.
Đến chiều khi người chồng đi làm về, người phụ nữ kể lại chuyện cho chồng nghe. Nghe xong người chồng bảo vợ: "Vậy thì bây giờ em hãy ra mời ba cụ ông vào, nói với mấy cụ rằng anh đã về và muốn mời họ vào". Người vợ làm theo ý của chồng, bà bước ra sân mời cả ba cụ cùng vào.
- Rất tiếc thưa bà, cả ba chúng tôi không thể vào nhà bà cùng một lúc được. Họ đồng thanh đáp.
- Vì sao lại thế thưa các cụ.... Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.
Một cụ già bèn đứng dậy từ tốn giải thích:
- Cụ ông này tên là Giàu Sang, còn kia là cụ ông Thành Đạt, và còn lão già đây là Tình Thương. Bây giờ bà hãy vào nhà hỏi ông nhà xem sẽ mời ai trong ba lão chúng tôi vào nhà trước nhé. Người phụ nữ đi vào nhà và kể lại sự việc cho chồng.
- Ồ vậy thì tuyệt quá! Người chồng vui mừng nói.
- "Vậy thì tại sao chúng ta không mời cụ ông Giàu Sang vào trước. Cụ là điềm phước rồi đây, sẽ cho chúng ta nhiều tiền bạc của cải sung túc". Nhưng người vợ lại không đồng ý. "Nếu vậy thì tại sao chúng ta lại không mời cụ Thành Đạt vào trước chứ... Chúng ta sẽ có quyền cao chức trọng và được mọi người kính nể. " Hai vợ chồng cứ tranh cãi một lúc mà vẫn chưa đi đến quyết định.
Cô con gái nãy giờ đứng nghe yên lặng ở góc phòng bỗng lên tiếng nhỏ nhẹ: "Ba mẹ ạ, tại sao chúng ta không thử mời ông già Tình Thương vào nhà trước đi. Nhà mình khi ấy sẽ tràn ngập tình thương yêu ấm áp, và ông già sẽ cho gia đình chúng ta thật nhiều hạnh phúc. "
- "Có lẽ con gái mình nói đúng". Người chồng suy nghĩ rồi bảo vợ, "Vậy thì em hãy mau ra ngoài mời cụ Tình Thương vào trước đi vậy. "
Người phụ nữ ra ngoài và cất tiếng mời, "Gia đình chúng tôi xin hân hạnh mời cụ Tình Thương làm vị khách mời đầu tiên vào với gia đình của chúng tôi". Cụ già Tình Thương từ tốn đứng dậy và chầm chậm bước vào nhà. Nhưng hai cụ già kia cũng từ từ đứng dậy và bước theo cụ già Tình Thương...
Rất đỗi ngạc nhiên, người phụ nữ bước lại gần hai cụ Giàu Sang và Thành Đạt hỏi:
- "Tại sao hai cụ cũng cùng vào theo... Các cụ đã chẳng nói là cả ba cụ không thể vào nhà cùng một lúc sao". Khi ấy cả hai cụ cùng trả lời: "Nếu bà mời cụ Giàu Sang hay Thành Đạt tôi đây, thì chỉ một trong hai chúng tôi vào nhà được thôi, nhưng vì bà mời cụ ông Tình Thương, nên cả hai chúng tôi cũng sẽ vào theo. Bởi vì ở đâu có Tình Thương thì ở đó sẽ có Giàu Sang và Thành Đạt đó bà ạ".
(Sưu tầm)
Thứ Hai, 11 tháng 6, 2012
Ai là người quan trong nhất trong cuộc đời của bạn ? ????
Bài học về lòng biết ơn
Ngày nọ, Jim - tên của cậu bé - sau một hồi đi qua đi lại, ngó nghiêng vào cửa hàng giải khát đông nhất nhì thành phố, nơi có món kem trái cây mà cậu rất thích; mạnh dạn tiến lại gần cửa ra vào, đẩy nhẹ và bước vào. Chọn một bàn trống, cậu nhẹ nhàng ngồi xuống ghế và đợi người phục vụ đến.
Chỉ vài phút sau, một người nữ tiếp viên tiến lại gần Jim và đặt trước mặt cậu một ly nước lọc. Ngước nhìn cô phục vụ, cậu bé hỏi: “Cho cháu hỏi bao nhiêu tiền một đĩa kem trái cây ạ?”. “50 xu“, cô phục vụ trả lời. Nghe vậy, Jim liền móc trong túi quần ra một số đồng xu lẻ, nhẩm tính một hồi, cậu hỏi tiếp: “Thế bao nhiêu tiền một đĩa kem bình thường ạ?”. “35 xu”, người phục vụ vẫn kiên nhẫn trả lời cậu bé mặc dù lúc đó khách vào cửa hàng đã rất đông và đang đợi cô. Cuối cùng, người hầu bàn cũng mang đến cho Jim món kem mà cậu yêu cầu, và sang phục vụ những bàn khác. Cậu bé ăn xong kem, để lại tiền trên bàn và ra về.
Khi người phục vụ quay trở lại để dọn bàn, cô đã bật khóc khi nhìn thấy 2 đồng xu (1 đồng bằng 5 xu) và 5 đồng 1 xu được đặt ngay ngắn trên bàn, bên cạnh 35 xu trả cho đĩa kem mà Jim đã gọi - Jim đã không thể có món kem nước hoa quả mà cậu ấy thích bởi vì cậu ấy chỉ có đủ tiền để trả cho một đĩa kem bình thường và một ít tiền boa cho người phục vụ, như là một món quà biết ơn cho những người đã giúp cậu.
Những châm ngôn hay trong cuộc sống
1
Đừng quá xem trọng điều gì. Hãy tiếp
nhận mọi sự may rủi một cách nhẹ nhàng( Jepfecson).
2
"Trong những lúc khó khăn nhất của
cuộc sống, đừng cố gắng trở thành một người thành công hay hạnh phúc, tốt hơn
hãy trở thành một người có giá trị" (Albert Einstein).
3
Không nên bày tỏ những lo âu và thất bại
của bạn cho những người bạn nghe. Tốt hơn hết nên kể với những kẻ thù của bạn -
ít ra thì bạn cũng cung cấp cho họ những phút giây thoải mái, ngoài ra, bạn còn
chắc rằng: họ sẽ dỏng tai lên mà nghe bằng hết những lời nói của bạn. (B.Sou)
4
Người có đạo đức thì luôn kính trọng các
bậc đạo đức hơn mình. Người mà không biết kính trọng các bậc đạo đức thì phải
biết rằng đạo đức của mình vẫn còn kém dở.
5
Thế giới này đầy ắp những đau khổ là do
người ta chỉ biết sống cho mình, hướng về mình.
6
Đừng khóc vì nước mắt chỉ làm đấy thêm
bể khổ, đừng cười vì ngạo mạn sẽ làm tan vỡ cả tương lai.
7
Nếu không biết cúi xuống để nhặt một cây
kim thì đừng nghĩ rằng sau này sẽ làm được việc lớn; Nếu chưa thể tiết kiệm vài
số điện ở bóng đèn, cái quạt trong nhà thì đừng nghĩ rằng sau này mình sẽ giàu.
8
Kẻ nào nghĩ mình là giỏi, thì biết rằng
kẻ ấy vẫn còn quá ngu dốt. Người nào nghĩ mình vẫn còn kém cỏi mà vẫn không tự
ti, luôn cố gắng thì đó là 1 suy nghĩ đúng.
9
Người kiêu mạn hay bị những tai nạn bất
ngờ, càng kiêu mạn càng thêm đau khổ. Người khiêm hạ thường có nhiều niềm vui
bất ngờ! Càng khiêm hạ bao nhiêu càng hạnh phúc bấy nhiêu.
10 Người
không khoe khoang chưa biết họ tốt hay xấu nhưng là người có bản lĩnh, biết
giấu kín thực lực của mình.
11 Đừng
tiêu xài hết tiền bạn đang có, không nên muốn ngủ bao lâu thì ngủ.
12 Cuộc
sống của chúng ta có lắm thăng trầm. Thăng vì đôi lúc chúng ta biết khiêm hạ
nhưng trầm vì chúng ta còn mắc bệnh khoe khoang.
13 Nếu
thỏa mãn vật chất là hạnh phúc thì ta có thể xem con bò là hạnh phúc. ( Platon).
14 Người
hay nói dối thì không có việc xấu gì mà người đó không thể làm.
15 Khi
khoe khoang điều hay thì những điều đang có sẽ mất, đang đến sẽ không đến nữa,
việc đang làm sẽ không làm được và thường gặp nhiều rủi ro, bất trắc.
16 Biết
đủ không nhục, biết dừng không nguy. Như thế có thể giữ được lâu dài.( Lão Tử).
17 Người nào hay bị kích động, người
đó có một tinh thần yếu đuối. Người nào không bị kích động, người đó có một
tinh thần mạnh mẽ.
18 Hãy
khôn ngoan như rắn và hiền lành như chim bồ câu!
19 Hãy
có thái độ không sợ hãi của một anh hùng và trái tim thương yêu của một trẻ
thơ.
20 Việc
gì trong đời sống cũng khó khǎn cả, vì chưa thành thói quen khi đã có thói quen
thì việc gì cũng không khó.
21 Trên
sân khấu chỉ có kẻ bại trận mới ngồi nói dai. Kẻ thắng trận đã mĩm cười bỏ đi
mất với chiến lợi phẩm.
22 Can
đảm không phải là dám chết mà là dám sống và làm ích lợi cho đời.
23 "Có
nhiều điều kỳ diệu chợt đến trong cuộc sống, nhưng hầu hết những điều tuyệt vời
trong đời là do ta thận trọng vun đắp, nỗ lực đeo đuổi hoặc đòi hỏi sự kiên trì
bền bỉ mới có được."
24 Người trí thì sự vui hay sự khổ
không làm cho bồng bột hay suy sụp.
25 Con
người ta giỏi lên phần nhiều nhờ lúc thực hành, chứ không phải lúc học.
26 Người
không chịu sửa mình mà muốn có tiếng thơm để đời thì khác nào mặt xấu mà muốn
có cái hình đẹp trong gương.
27 Người
có trí tuệ càng cao thì càng thấy mình nhỏ bé.
28 Cổ
nhân dạy: "Y nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là chúng ta không nên bận tâm
với những lời nói, những câu văn không có ý nghĩa gì cả. Thí dụ như có người
nói chúng ta ngu như con bò, nếu chúng ta nổi giận, thì quả là chúng ta ngu
thực rồi, còn gì nói nữa. Những câu nói vô nghĩa tương tự khó có thể làm động
tâm những người cố gắng tìm hiểu đạo lý.
29 Cái
gì cũng nói biết nghĩa là không biết gì cả( Tục ngữ Anh).
30 Ngu
ngốc không phải là do thiếu kiến thức, không phải là do không muốn học mà do
tin rằng đã biết hết tất cả. (Anita Joachim-Daniel).
31 Nếu không tìm thấy hạnh phúc ngay
trong chính bản thân mình thì không thể tìm được ở nơi nào khác( Agnes
replier).
32 Nếu
còn tin ở đất đai
Bao
nhiêu gánh nặng trên vai cũng thường
Nếu
còn là kẻ bất lương
Bao
nhiêu bão tố mười phương đổ vào.
33 Chúng
ta không yêu quý điều gì, thì điều đó sẽ rời khỏi tầm tay của chúng ta.
34 Chẳng
gìn giữ hạnh nhỏ, tất lụy đến đức lớn.
35 Người
vượt đèn đỏ là người đã có hành vi ăn cắp (thậm chí ăn cướp) quyền sử dụng đèn
xanh của người khác.
36 Cố
gắng là sức mạnh của tinh thần nhưng không phải tự nhiên mà có. Chúng ta phải
rèn luyện ngay từ khi còn nhỏ. Khi đã qua thời tuổi trẻ, chúng ta rất khó rèn
luyện vì Ý chí sẽ không khởi được nữa. Bởi vậy, khi còn trẻ, nếu có được những
cảnh khổ để rèn luyện, chúng ta nên xem đó là một diễm phúc của cuộc đời. Phần
lớn những người có một thời tuổi trẻ sung sướng là những người không có ý chí,
nghị lực. Những người ấy chưa biết cố gắng là gì nên rất dễ dàng chùn bước
trước khó khăn hay gục ngã trước hoàn cảnh.
37 Người
có tâm tự mãn, tự hào thầm kín giống như cái đĩa cạn, nước không thể rót được
nhiều.
38 "Hạnh phúc là sự bình an của
tâm hồn, không phải ở những trò vui giả tạo hay cuồng dại."
39 Không
làm điều mình thích, Chỉ làm điều có ích!
40 Sự tôn trọng không đến từ công việc
mà bạn đang làm, nó đến từ cái cách mà bạn đang làm công việc đó.
41 Người
mà sống buông thả, bừa bãi, lười biếng là người có nội tâm không chặt chẽ được.
Nội tâm cẩu thả, lười biếng là người không chiến thắng được bản thân. Ngay đến
thói lười biếng, cẩu thả còn không chiến thắng được thì dĩ nhiên, phần nhiều ta
biết rằng họ không chiến thắng được ngoại cảnh, những tác động từ bên ngoài,
nói cách khác là dễ bị kích động.
42 Người
không bị kích động là người có một nội tâm mạnh mẽ, trong những hoàn cảnh bất
ngờ, những biến cố dữ dội vẫn giữ được sự bình tĩnh, sáng suốt không cuốn theo
hoàn cảnh và không đau khổ.
43 Bạn
có thể không thể lựa chọn được những gì xảy đến với mình nhưng bạn hoàn toàn có
thể lựa chọn thái độ tích cực nhất để đối mặt với chúng.
44 Con
người ta khi chưa thành danh, phải tập sống tiết tháo, theo khuôn mẫu, phép
tắc, ước thúc bản thân vì sống bừa bãi, phóng dật thì sau này khó tiến bộ.
45 Người
nào mà đạo đức không vững vàng thì khi gặp cơ hội rất dễ làm chuyện sai trái,
lầm lỗi.
46 Khi
ta chưa có địa vị, ai nói gì mình cũng nhịn được, nhưng có địa vị rồi, tâm lại
trở nên hẹp hòi, cho nên được ca ngợi thì mình mới vui, ai xem thường thì mình
khổ đau.
47 Sự cảm phục về người này chỉ xuất
hiện trong tâm người kia nhưng có thể làm cho họ sung sướng khi biết người khác
cảm phục mình.
48 Một
người nghĩ mình giỏi, đôi khi là do họ tự nghĩ mình giỏi, chỉ là cảm xúc và
đánh giá cá nhân, không hoàn toàn bởi sự công nhận của những người khác.
49 Thích
nói ra những cái hay, cái tốt của mình cho người khác biết, đó là tâm lý thường
tình của con người. Vì người ta nghĩ rằng, những điều đó làm cho họ tăng thêm
giá trị và khiến người khác phải nể phục. Tâm lý thèm khát sự cảm phục của
người khác là tâm lý rất mãnh liệt của con người.
50 Làm
việc khó bắt đầu nơi chỗ dễ. Làm việc lớn bắt đầu nơi chỗ nhỏ". Chính vì săn
sóc, chăm lo cho những điều nhỏ mà làm được những điều lớn bất ngờ. Bắt đầu từ
những việc làm căn bản, nhỏ bé mà thiết thực. Giọt nước chảy lâu cũng làm thủng
cối đá. Lỗ mọt nhỏ cũng có thể làm chìm thuyền. Điều thiện cũng như điều ác
cũng đều nên được ý thức từ những điều rất nhỏ.
51 Nếu
cái nhỏ gì cũng xem thường, để cho qua loa thì sẽ có ngày trở thành những cái
khó lớn. Biết khó mà không xem thường thì có thể đối mặt với mọi hoàn cảnh mà
không rơi vào sự lúng túng, dao động. Biết nhỏ thì có thể lấy mềm buộc chặt,
lấy ít ngăn chế nhiều.
52 Người
hiểu đạo trị luôn giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như cái lớn, cái ít
như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc
lớn từ khi còn nhỏ. Cho nên người đắc đạo trước sau không làm việc gì lớn mà
thực hiện được việc lớn.
53 Người
tài không lộ tướng, lộ tướng thì không phải người tài! Người có bản lĩnh khác
thường thì tính tình kín đáo, chẳng mấy ai nhìn ra được.
54 Người
có thể tiến bộ thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên
mới có thể bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được. Khi thấy mình là giỏi
nhất thì không còn học hỏi được nữa( vì mình đã là nhất rồi). Khi xem xét sự
vật, không được quên mặt đối lập của nó. Nghĩ đến cái hữu hạn thì đừng quên cái
vô hạn.
55
Người không ham giàu thì nghèo không là nỗi khổ; không thương yêu
thì xa nhau không tiếc nhớ; không ghét nhau thì gần nhau không bực bội; không
tự ái thì bị nhục mạ không khó chịu; không cần danh vọng thì mất chức không là
nỗi bận tâm.
56 Đừng bị kích động trong những
trường hợp khẩn cấp. Hãy giữ đôi chân của bạn trên mặt đất.
57 Giới
hạn việc vay mượn: Những người sống bằng tiền vay mượn và thẻ tín dụng sẽ không
thể giàu được. Do đó không nên vay mượn một khoản tiền lớn để tiêu dùng hay đầu
tư. Cũng không nên thế chấp. Nhiều người cứ tưởng mình quản lý được nợ nần
nhưng lại khốn đốn vì chúng tốt nhất là chỉ mượn đến số tiền bạn có thể trả và
hãy đầu tư bằng tiền tiết kiệm của chính mình.
58 Người
ta buồn vì có vui (hết vui thì thấy buồn) và người ta vui vì có buồn (hết buồn
thì thấy vui). Chỉ có những người thiết lập được sự bình an, tâm tư lắng đọng
không bị cảnh bên ngoài chi phối, vượt lên sự buồn vui thường tình mới thực sự
vững chải, an trú trong hạnh phúc và tịnh lạc.
59 Đối
với những người nóng giận, nhìn thái độ biểu hiện bên ngoài, tưởng chừng những
người hay giận dữ có một bản tính mạnh mẽ, nhưng thực chất, họ có một nội tâm
yếu ớt. Vì tâm và thân vốn ngược nhau. Người có thân mạnh là người làm được
nhiều việc, hăng hái, năng nổ nhưng tâm chưa hẳn đã mạnh. Tâm mạnh là tâm trầm tĩnh, không dễ dàng bị kích động.
60 Người
sâu sắc thường biết mà tỏ ra không biết, đó là buông xả. Họ biết nhưng không cố
chấp cái biết của mình, vẫn ưu ái, thương yêu mọi người. Nếu như các vị Thánh
lúc nào cũng biết mà tỏ ra biết, chúng ta sẽ không bao giờ dám đến gần họ. Ở
đây, biết mà như không biết, sâu sắc mà buông xả là xuất phát từ tâm từ bi, tâm
thanh tịnh. Đó cũng là tế hạnh. Vì vậy, người chưa có tế hạnh, chưa kín đáo
thường hay bộc lộ sự hiểu biết của mình trước mặt mọi người.
61 Ta
phải sống khiêm hạ nhưng không hèn hạ, khúm núm. Khi gặp người khác, chúng ta
luôn tôn trọng họ nhưng tuyệt đối không khúm núm, không có thái độ của một kẻ
cầu cạnh vì đó là thái độ của người mất tư cách.
62 Người
quân tử khi tai họa đến thì không sợ, khi phúc đến thì không mừng. (Khổng Tử).
63 Khi
sống sung túc, phẩm hạnh lớn nhất là sự điều độ,
Khi
gặp tai họa phẩm hạnh lớn nhất là kiên cường(Ba con ).
64 Sự trả thù là dấu hiệu của một tinh
thần yếu ớt, bất lực không thể chịu đựng được những sự lăng mạ.( La
Rochefoucaulol).
(Sưu tập )
Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012
Bài học về lòng Kiên Nhẫn
Bài học về lòng Kiên Nhẫn
Đã bao giờ bạn quan sát loài chim
xem chúng kiên nhẫn thế nào trước khó khăn ?
xem chúng kiên nhẫn thế nào trước khó khăn ?
Để hoàn thành chiếc tổ, nó phải mất rất nhiều ngày,
đôi khi nó phải đi kiếm cỏ rơm từ rất xa
đôi khi nó phải đi kiếm cỏ rơm từ rất xa
Thế mà khi tổ chim đã sẵn sàng cho ngày đẻ trứng,
bỗng dưng khí hậu, con vật, hoặc con người
hất rơi xuống đất cái tổ mà nó đã bỏ ra bao công sức.
bỗng dưng khí hậu, con vật, hoặc con người
hất rơi xuống đất cái tổ mà nó đã bỏ ra bao công sức.
Chúng làm gì ? Kêu ca, than thở hay bỏ cuộc ?
Không đâu ! Nó lại tiếp tục xây tổ mới …
Bình tĩnh và thanh thản
Không đâu ! Nó lại tiếp tục xây tổ mới …
Bình tĩnh và thanh thản
Đôi khi, và cũng hay xảy ra,
một con thú, trẻ em hay bão tố…
lại phá tổ của nó lần nữa, thậm chí chẳng để lại gì.
một con thú, trẻ em hay bão tố…
lại phá tổ của nó lần nữa, thậm chí chẳng để lại gì.
Nó sẽ nhanh chóng làm tổ lần khác nữa,
Lại đi lượm rơm, cỏ, lá, xếp thành ổ.
Đặc biệt, khi tiến hành làm tổ, chim vẫn cất tiếng hót.
Chim luôn luôn hót khi làm tổ…..
Lại đi lượm rơm, cỏ, lá, xếp thành ổ.
Đặc biệt, khi tiến hành làm tổ, chim vẫn cất tiếng hót.
Chim luôn luôn hót khi làm tổ…..
Trong cuộc sống, bạn phản ứng thế nào
khi công việc hoàn cảnh không giống như mình mơ ước ?
Có khi nào bạn hô lên “đủ rồi, với tôi thế là quá lắm rồi.”
khi công việc hoàn cảnh không giống như mình mơ ước ?
Có khi nào bạn hô lên “đủ rồi, với tôi thế là quá lắm rồi.”
Bạn thấy mệt mỏi ? Bạn thấy phí thời gian vô ích ?
Bạn thấy mình bị phản bội ?
Mục đích bỗng rời xa ngay khi bạn gần chạm đến ?
Bạn thấy mình bị phản bội ?
Mục đích bỗng rời xa ngay khi bạn gần chạm đến ?
Bạn hãy cố giữ vững niềm tin và hy vọng.
Đừng sợ, vì có khó khăn mới tỏ mặt anh hùng !
Hãy kiên tâm. Vì chẳng bao giờ là trễ để khởi sự lại.
Đừng sợ, vì có khó khăn mới tỏ mặt anh hùng !
Hãy kiên tâm. Vì chẳng bao giờ là trễ để khởi sự lại.
Dù xảy ra chuyện gì đi nữa… Đừng bỏ cuộc, hãy tiến tới.
Cuộc sống là phải có thách đố, vậy hãy đón nhận nó.
Và nên nhớ, đừng bao giờ ngưng tiếng ca.
Cuộc sống là phải có thách đố, vậy hãy đón nhận nó.
Và nên nhớ, đừng bao giờ ngưng tiếng ca.
Chúc bạn một chuỗi ngày tốt đẹp.
(Sưu tập)
Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012
Kinh Pháp Hoa với lời thệ nguyện "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ"
Kinh Pháp Hoa với lời thệ nguyện "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ"
Theo
tinh thần của Đại Thừa Giáo thì lấy Bồ Tát Hạnh làm cao điểm, mà thuyết
minh về Bồ Tát hạnh thì Kinh Pháp Hoa là Kinh tiêu biểu, là Kinh đúc
kết nói lên bản hoài cao tột của Đức Phật trong sự ra đời và thuyết giáo
của Ngài trong suốt 45 năm ở cõi Ta Bà.
Kinh
Pháp Hoa diễn tả một chân lý sinh động qua các hạnh của các vị Bồ Tát.
Đức Phật nhìn tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Và vì tất cả chúng
sanh có Phật tánh cho nên tất cả việc làm thiện của chúng sanh dù là một
việc thiện rất nhỏ cũng đưa đến sự giải thoát thành Phật, như trong
phẩm Phương Tiện có câu: "Nhược nhơn tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu
trung, nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo" (Nếu có người tâm
tán loạn, đi vào trong tháp miếu Phật, xưng một tiếng Nam Mô Phật, đều
được thành Phật đạo). Hoặc: "Nãi chí đồng tử hý, tụ sa vi Phật tháp,
giai dĩ thành Phật đạo (Cho đến trẻ nhỏ chơi, nhóm cát làm tháp Phật,
đều được thành Phật đạo).
Đó
là những điều mà các thời giáo trước Phật chưa nói. Đến khi giảng Kinh
Pháp Hoa Đức Phật mới đề cập đến. Bởi lẽ những việc thiện dù rất nhỏ
cũng xuất phát từ Phật tánh, nếu như không có Phật tánh thì không thể có
các việc thiện, và đã là xuất phát từ Phật tánh thì dù làm một việc
thiện trong tán loạn tâm, nó cũng đưa đến quả thành Phật. Sau ngày thành
đạo, Đức Phật thuyết giáo lý căn bản, Ngài muốn đưa tất cả chúng sanh
đến giác ngộ như Phật, nhưng không thể đưa được, đó là trường hợp Ngài
nói Kinh Hoa Nghiêm mà theo Ngài Thiên Thái Trí Giả cho Kinh ấy là Kinh
Đức Phật giảng đầu tiên khi vừa thành đạo tại cội Bồ Đề, không mấy ai
hiểu nổi. Và đó cũng là diễn tả ý nghĩa lời nói của Đức Phật khi vừa
thành đạo tại cội Bồ Đề mà trong kinh Đại Niết Bàn thuộc Trường Bộ Kinh
và Kinh Thỉnh Cầu thuộc Tương Ứng Bộ Kinh đều có ghi lại: "Pháp này do
ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao
thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người có trí mới hiểu thấu, còn quần
chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó thấy
được tất cả hành là tịch tịnh, tất cả danh y được từ bỏ, ái được đoạn
tận, ly dục, ái dục Niết bàn". Nên Đức Phật phải tùy theo căn cơ mà
phương tiện thuyết ra Ba Thừa Giáo. Trong Ba Thừa Giáo này, mỗi thừa đều
có nhân riêng, quả riêng, hạnh riêng. Thanh Văn thừa tu theo Thanh văn
Thừa, Duyên Giác thì tu theo Duyên Giác Thừa, Bồ Tát thì tu theo Bồ Tát
Thừa. Nhân của Thừa nào thì chứng quả của Thừa ấy, mỗi thừa riêng biệt
pháp tu, riêng biệt quả chứng, không tương quan với nhau. Tiểu Thừa là
Tiểu Thừa, Đại Thừa là Đại Thừa, không lẫn lộn được. Ngay như trong Kinh
Bát Nhã, Kinh Hoa Nghiêm cũng có nói đến việc thọ ký cho người sẽ thành
Phật, song chỉ thọ ký cho hàng Bồ Tát, còn hàng Thanh Văn, Duyên Giác
thì tuyệt nhiên vô phần. Nhưng đến thời kỳ Kinh Pháp Hoa lại khác. Trong
đây xác minh rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, như vậy tất cả
chúng sanh đều trở thành Phật, dù cho họ tu theo Thanh Văn Thừa hay
Duyên Giác Thừa. Vì Nhị Thừa giáo tuy là phương tiện, nhưng phương tiện
không có nghĩa là vô giá trị, mà giá trị của nó là những chặng đường đưa
đến cứu cánh giác ngộ. Ở đây đặc biệt nhấn mạnh đến quan điểm Đức Phật
ra đời chỉ thuyết có một Phật thừa mà thôi, và chỉ có một Phật thừa đó
mới đích thực, còn nói Tiểu Thừa, Đại Thừa đều chỉ là phương tiện nói
ra. Nói ra theo căn cơ thấp cao của Phật thật có Tiểu có Đại. Danh từ
Tiểu thừa, Đại Thừa ở trong Kinh Pháp Hoa bị coi nhẹ, không còn mang ý
nghĩa đích thật, cố định như ở các Kinh Luận Đại Thừa khác.
Kinh
Pháp Hoa có cái nhìn đặc biệt về Phật thân và Giáo pháp. Về Phật thân,
Pháp Hoa nói đến cả Phật sanh thân và Phật pháp thân. Phật sanh thân là
Đức Phật lịch sử có giới hạn trong không gian và thời gian, như Đức
Thích Ca ra đời tại Ấn Độ. Còn Phật pháp thân là tánh pháp thân bất sanh
bất diệt, châu biến pháp giới. Không có Phật pháp thân thì không có
Phật sanh thân và nếu không có Phật sanh thân thì không bằng vào đâu
hiển lộ Phật pháp thân. Phật pháp thân ví dụ như mặt trăng trên trời,
còn Phật sanh thân ví dụ như ánh trăng dưới nước. Ánh trăng dưới nước
nhờ trăng trên trời mà có, trăng trên trời nhờ ánh trăng dưới nước mà
biểu lộ sự ứng dụng. Ánh trăng dưới nước tùy theo duyên của nước mà khi
có khi không, còn mặt trăng trên trời thì không phải chịu sự có không
theo nước. Đó là điểm đặc biệt khác với các kinh khác hoặc chỉ nói đến
sanh thân, mà không nói đến pháp thân, hoặc chỉ nói đến pháp thân mà
không nói đến sanh thân. Đức Phật Thích Ca đản sanh dưới cây Vô Ưu và
thị tịch tại Ta-la song thọ, đó là Đức Phật sanh thân, là cái bóng của
Đức Phật pháp thân vô lượng thọ. Bóng và hình khác nhau nhưng bóng và
hình không hề rời nhau. Hiểu như vậy mới là cái hiểu toàn diện về Đức
Phật. Đó là quan điểm về Phật thân trong Kinh Pháp Hoa. Còn quan điểm về
toàn bộ giáo pháp Phật thì Kinh Pháp Hoa cũng là Kinh đặc biệt nêu lên
cả quyền giáo và thật giáo. Quyền giáo là giáo pháp chưa rốt ráo. Quyền
giáo tuy chưa rốt ráo nhưng không thể thiếu được. Thiếu quyền giáo thì
không đưa ra được thật giáo, cho nên quyền giáo và thật giáo cũng đều là
giáo pháp Phật giảng dạy chúng sanh khai ngộ. Trong Kinh Pháp Hoa không
chấp quyền mà bỏ thật, cũng không chấp thật mà bỏ quyền.
Theo
Ngài Thiên Thái Trí Giả, một vị học Phật rất uyên bác, tổ sáng lập ra
Tông Thiên Thai với nhiều kiến giải mới lạ độc đáo về Phật pháp. Ngài đã
ví toàn bộ giáo pháp Phật như một mặt trời chiếu sáng. Mặt trời tuy
một, nhưng tùy thời điểm chiếu sáng khác nhau trên mỗi đối tượng khác
nhau mà có tác dụng và hình thái khác nhau. Cũng như vậy, Phật pháp tuy
một, nhưng tùy thời điểm Đức Phật thuyết giảng cho mỗi đối tượng khác
nhau, nên thành ra như có những giáo pháp khác nhau. Theo đó Ngài Thiên
Thái chia toàn bộ giáo pháp kinh điển Phật làm năm thời như sau:
Thời
Hoa Nghiêm: Cũng gọi là thời "Nhật xuất tiên chiếu cao sơn." Sau khi
thành đạo, Đức Phật thuyết Kinh Hoa Nghiêm đầu tiên cho hạng căn cơ bậc
thượng, như mặt trời khi mới mọc trước tiên chiếu trên đỉnh núi cao.
Thời
A Hàm: Cũng gọi là thời "Nhật thăng thứ chiếu hắc sơn." Tiếp thời Hoa
Nghiêm, Đức Phật thuyết các kinh A Hàm cho căn cơ bậc trung và hạ, như
mặt trời khi lên cao chiếu đến núi thấp.
Thời
phương đẳng: Cũng gọi là thời "Nhật thăng chuyển chiếu cao nguyên." Đây
là thời Đức Phật thuyết các kinh như Lăng Nghiêm, Lăng Già, Bảo Tích,
Tư Ích, v.v. Như mặt trời khi càng lên cao chiếu lại vùng cao nguyên.
Thời
Bát Nhã: Cũng gọi là thời "Nhật thăng phổ chiếu đại địa." Đây là thời
Đức Phật thuyết kinh Đại Bát Nhã, như mặt trời khi lên cao nữa, chiếu
khắp cả đại địa.
Thời
Pháp Hoa Niết Bàn: Cũng gọi là thời "Nhật một hoàn chiếu cao sơn." Đây
là thời Đức Phật thuyết các kinh Pháp Hoa, Niết Bàn. Như mặt trời khi
sắp lặn chiếu ánh sáng trở lại trên đỉnh núi cao, giống như lúc mới mọc.
Lối
chia toàn bộ kinh đỉển giáo pháp Phật theo năm thời trên đây, nếu căn
cứ về thời gian thì không hợp lý, vì theo sự khảo cứu lịch sử đến nay
không mấy người công nhận Đức Phật có thuyết kinh Hoa Nghiêm ngay khi
mới thành đạo. Nhưng nếu đứng về mặt tư tưởng thì đây quả là điều không
phải là vô căn cứ. Vì khi Đức Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm là thuyết về
đạo lý duyên khởi, một đạo lý cao siêu, sâu kín mới lạ, chúng sanh ngơ
ngác không ai hiểu thấu. Phải chăng điều này tương ứng chặt chẽ với lời
Đức Phật nói khi mới thành đạo: "Pháp này do ta chứng được, thật là sâu
kín khó thấy, v.v. ", như đã dẫn ở đoạn trước. Rồi từ đó Đức Phật mới
phương tiện giảng lý Tứ Đế cho năm vị Tỳ kheo, tức là Ngài dạy giáo lý
chủ yếu ghi trong các bộ A Hàm và Nikàya.
Giáo
lý trong thời A Hàm chỉ chú trọng phá trừ ngã chấp, diệt tham ái, chứng
Niết bàn, chứ chưa đề cập đến giáo lý phá trừ pháp chấp. Phải đợi đến
thời nói kinh Bát Nhã mới chú trọng phá trừ luôn cả pháp chấp. Theo tinh
thần Bát Nhã thì tất cả pháp vô luận hữu tình hay vô tình đều là không
có thật tính, nghĩa là đều không có cá tính độc lập, đều là vô sở đắc.
Nhưng vô sở đắc không có nghĩa là hư vô. Mà vì vô sở đắc mới là đắc, tức
là đắc thành trí Đại Viên Cảnh, thành Phật. Tư tưởng này là tư tưởng
trong kinh Pháp Hoa, Niết Bàn, cho nên thời Pháp Hoa, Niết bàn đặt để ở
thời thứ năm sau hết là vì lý do ấy.
Đại
Sư Cát Tạng, người sáng lập Tông Tam Luận, chia toàn bộ giáo pháp Phật
làm ba pháp luận là: 1. Căn bản pháp luận, chỉ cho thời nói kinh Hoa
Nghiêm. 2. Chi mạt pháp luận, chỉ cho thời nói kinh A Hàm, Phương Đẳng,
Bát Nhã và 3. Nhiếp mạt qui bản pháp luận, chỉ cho thời nói kinh Pháp
Hoa Niết Bàn. Như vậy kinh Pháp Hoa cũng đặt ở vị trí cuối cùng cao tột
hơn hết. Nhiếp mạt qui bản có nghĩa là gom tất cả giáo pháp phương tiện
đưa về cứu cánh, gom ngọn trở về gốc. chữ Chuyển pháp luân theo chữ Pali
là Dhamma Cakka Pavatana
Chuyển - Pavatana: Chuyển động, xây dựng, củng cố.
Pháp - Dhamma: Trí tuệ, chân lý, đạo
Luân - Cakka: Bánh xe, vương quốc.
Do những định nghĩa trên mà có người dịch là củng cố vương quốc trí tuệ, xây dựng vương quốc chân lý, chuyển bánh xe pháp.
Chữ
Luân là bánh xe, có khả năng lăn chuyển, lăn chuyển từ tâm người này
đến tâm người khác, giáo pháp từ tâm chứng ngộ của Phật chuyển đến tâm
mê lầm của chúng sanh. Cũng như bánh xe lăn từ chỗ này đến chỗ khác.
Chữ
Luân còn có nghĩa là dằn dẹp, lăn đến đâu dằn dẹp đến đó, Giáo pháp
Phật lăn đến tâm chúng sanh thì dằn dẹp hết mọi phiền não tà kiến, vô
minh.
Lại
Chuyển Luân Vương có xa-luân-bảo là biểu hiệu chính của vương quyền,
nhờ nó mà đi đến với muôn dân, đem lại sự bình an thịnh vượng cho họ.
Cũng như vậy Như Lai Pháp Vương thì có pháp luân để đi đến với chúng
sanh, đem lại sự an vui giải thoát cho họ.
Kinh
Pháp Hoa đã được dịch từ Phạn văn ra Hoa văn rất sớm. Năm 256 TL, tại
Trung Hoa, Ngài Trúc Pháp Hộ dịch tên là Chánh Pháp Hoa. Năm 404, Ngài
Cưu Ma La Thập dịch tên là Diệu Pháp Liên Hoa. Đời Tùy Trung Hoa, Trí
Khải Đại Sư (531-597) đã căn cứ kinh Pháp Hoa mà lập Tông Thiên Thai.
Năm 593-622, ở Nhật, Thánh Đức Thái Tử (Shotaku Taishi) đã chú giải kinh
Pháp Hoa cùng lúc với kinh Thắng Man, Duy Ma Cật, và dựa vào đó soạn
thảo và công bố bản Hiến Pháp 17 điều đầu tiên của Nhật. Năm 1222 có Sư
Nhật Liên cũng dựa vào kinh Pháp Hoa mà lập nên Nhật Liên Tông, làm một
cuộc cách mạng lớn đối với các tông phái Phật giáo truyền bá tư tưởng ở
Nhật Như Tịnh Độ Tông, Luật Tông, Thiền Tông.
Cho
đến nay Nhật Liên Tông vẫn thịnh hành, là một tông phái Phật giáo đi
vào xã hội quần chúng một cách rộng rải. Họ thường xuyên niệm câu: Đại
Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh để cầu nguyện hòa bình. Cả Ngài Cát Tạng,
Tông chủ của Tam Luận Tông cũng tôn kính Pháp Hoa là kinh ở thời thuyết
giáo "Khiếp mạt qui bàn pháp luân." Tại Việt Nam trong các thế kỶ Phật
giáo hưng thịnh, kinh Pháp Hoa cũng được hành trì rộng rãi. Năm 1879,
Thiền Sư Thanh Đàm hiệu Minh Chính sáng tác sách Pháp Hoa Đề Cương rất
có giá trị cả mặt tư tưởng lẫn văn học. Chẳng hạn diễn tả chữ "Pháp"
trong câu Diệu Pháp Liên Hoa như sau: "Trần sa số lượng pháp tuy đa, Bất
quá căn trần thức giả ma, Hư ảnh huyên duyên đồ khỏi diệt, Chơn tri
chánh kiến trạm viên đà. Có trung Phát giác tầm sư đạo, Đạo thượng triền
nguyên nhập Phật gia. Nhược dục tốc đăng chơn bảo sở, Mục tiền tấn lộ
mạt ta đà." (Nguyễn Lang dịch: Vạn pháp tuy nhiều không đếm xiết, Chung
qui cũng chỉ thức căn trần. Huyển duyên hư ảnh dù không thực, Chơn tri
chánh kiến vẫn bao dung. Gặp thầy chỉ dạy đường mê ngộ, Thấy Phật tìm ra
lẽ sắc không, Nếu muốn lên mau bờ bến giác, Con đường trước mắt chớ lần
khân).
Nếu
muốn tìm hiểu nguồn gốc của hành động tự thiêu mà thỉnh thoảng các vị
sư Phật giáo thường là để xả bỏ huyển thân, cầu lên giải thoát, hoặc để
thức tỉnh lương tri nguời đời như Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu giữa năm
1963, thì sẽ thấy nó bắt nguồn xa xôi từ kinh Pháp Hoa này.
Tóm
lại, sở dĩ kinh Pháp Hoa có một vị trí và ảnh hưởng lớn lao như vậy, là
vì kinh Pháp Hoa theo như nhận định của nhà Phật học Nhật Bản Kimura
Taiken là kinh Phát huy toàn bộ đặc sắc về Bồ Tát đạo, coi hết thảy
chúng sanh đều là Bồ Tát, đều có khả năng tính thành Phật trong tương
lai. Bởi thế, bất luận là người nào (khác với nhiều kinh khác chỉ thừa
nhận một số người được thành Phật chứ không phải tất cả đều nên lấy việc
phát tâm tu hành nguyện Bồ Tát làm lý tuởng cứu cánh. Và theo nguyện
lực "chúng sanh vô biên thệ nguyện độ", nên lấy việc cùng với chúng sanh
xây dựng một nước cực lạc ngay trên thế gian này làm lý tưởng.
Đó là một nhận định đúng đắn và sâu sắc, được gợi ý từ những đoạn kinh Pháp Hoa nói về mục đích ra đời của Đức Phật là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật, nói về Phật thọ ký cho tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật, nói về một việc thiện nhỏ của bất cứ ai cũng đều là cái nhân tốt đưa đến thành Phật, nói về viên ngọc trong chéo áo, nói về Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát vì muốn thức tỉnh lòng người trở về với tính giác ngộ của chính mình, nên hễ gặp bất cứ ai Ngài đều cung kính chấp tay nói: "Tôi không dám khinh Ngài, vì Ngài sẽ thành Phật", và nói về Quan Thế Âm Bồ Tát trải rộng hạnh nguyện từ bi đến với mọi chúng sanh đang kêu cầu đến sự cứu khổ mà tùy theo căn cơ hiện thân hóa độ , v.v. Tóm lại toàn là nói về hạnh Bồ Tát độ khắp quần sanh không phân biệt thời gian ranh giới vậy.
Hạnh Ðầu Ðà Khổ Hạnh
Chương
II
Hạnh Ðầu Ðà Khổ
Hạnh
(Dhutanga-niddesa)
-ooOoo-
1. Khi một thiền giả
theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực
hành khổ hạnh để kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn,
biết đủ v.v... nhờ đó giới, như đã mô tả, được
thanh tịnh. Vì khi giới của vị ấy đã được thanh lọc
khỏi các cấu uế bằng những thứ nước thiểu dục, tri túc,
viễn ly, độc cư, ở những trú xứ vắng, tinh cần, ít nhu
cầu, thì giới sẽ trở nên hoàn toàn thanh tịnh, vị ấy sẽ
thành tựu, tất cả những ước nguyện của mình. Và khi
toàn thể con người đã được thanh lọc bằng công đức
giới và nguyện và đã an trú trong ba thánh tài đầu tiên,
vị ấy bây giờ có thể xứng đáng đạt đến gia tài thứ
tư gọi là "sự hân hoan trong tu tập" (A. ii, 27).
Bởi vậy, chúng ta sẽ khởi sự giải thích các khổ hạnh.
Mười Ba Khổ Hạnh
2. Ðức Thế Tôn đã
cho phép thực hành 13 khổ hạnh cho những thiện nàm tử đã
từ bỏ những chuyện xác thịt và không kể thân mạng,
mong muốn tu tập phù hợp với cứu cánh giải thoát. Mười
ba khổ hạnh là:
1. Hạnh phấn tảo y
2. Hạnh ba y
3. Hạnh khất thực
4. Hạnh khất thực từng nhà
5. Hạnh nhất toạ thực
6. Hạnh ăn bằng bát
7. Hạnh không để dành đồ ăn (không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong)
8. Hạnh ở rừng
9. Hạnh ở gốc cây
10. Hạnh ở giữa trời
11. Hạnh ở nghĩa địa
12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng xong
13. Hạnh ngồi (không nằm)
3. Sau đây sẽ trình
bày về (1) ý nghĩa (2) đặc tính v.v.. (3) thọ giới, chỉ dẫn,
cấp bực sự phạm giới và những lợi ích của mỗi hạnh,
(4) ba tánh, (5) Phân biệt "người khổ hạnh"
"người thuyết giảng khổ hạnh", "các pháp tương
ưng với khổ hạnh", "các khổ hạnh" và khổ hạnh
thích hợp với hạng người nào.
4. (1) Trước hết là
ý nghĩa
i. Gọi là phấn tảo (pamsukùla
-bụi bặm) vì nó được tìm ở những đống rác bên
đường, nghĩa địa, đống phân (midden), nó thuộc về
đồ bỏ tại các nơi ấy. Hoặc nó đang tiến đến một tình
trạng tồi tệ như đồ bỏ (Pamsu viya Kucchita - bhàvamukati)
cho nên gọi là phấn tảo y.
ii. Ba y là áo khoác
ngoài gồm những miếng vải chắp nối lại, thượng y và hạ
y.
5. iii. Sự để rơi (Pàta)
những mẩu đồ ăn (pinda) gọi là khất thực, pindapàta.
Thu nhặt đồ khất thực từng nhà, gọi là ăn đồ khất
thực. Hoặc vị ấy phát hiện thu lượm (patati: nhặt
- nghĩa này không có trong tự điển của Hội Pàli Text)
những miếng ăn (pinda) nên gọi là người thu nhặt đồ
ăn, hay người khất thực (pindapàtin). Sự thực hành
này gọi là hạnh khất thực để sống.
6. iv. Hạnh thứ đệ
khất: khe hở hay khoảng trống gọi là avakhandana
hay dàna. Dời khỏi chỗ trống (apeta: dời khỏi)
hoặc không chỗ trống, không hở, là apadàna. Người
đi từ nhà này đến nhà khác không chừa một nhà nào khoảng
giữa, gọi là sapadànacàrin, tức là hạnh khất
thực từng nhà, thứ đệ khất.
7. v. Ăn một lần mà
thôi, đứng lên rồi, không ngồi xuống ăn lại, gọi là hạnh
nhất toạ thực (ăn ngày một bữa)
vi. Chỉ ăn những gì
đã xin được trong bát, không nhận thêm bát thứ hai, gọi
là người ăn bằng bát, (pattapindika)
8. vii. "khalu"
có nghĩa từ chối, không nhận. Ðồ ăn mà vị ấy nhận
được sau khi đã ăn xong gọi là tàn thực (pacchàbhatta) người
không ăn đồ ăn như thế gọi là Khalupacchàbhattika,
không nhận đồ ăn sau khi ăn xong. Nhưng trong luận nói: "Khalu
là tên một giống chim khi mổ một trái cây để ăn, mà
trái ấy rớt thì thôi ăn. Vị tỷ kheo này cũng vậy.
9. viii. Vị ấy quen sống
ở rừng nên gọi là hạnh ở rừng.
10. ix. Sống dưới gốc
cây nên gọi là hạnh ở gốc cây.
x-xi. Ở ngoài trời và
ở nghĩa địa, cũng thế.
xii Những gì được phân
phối (cho mình) gọi là "như được phân phối" yathà-
santhata. Ðây là một từ ngữ chỉ chỗ nghỉ ngơi được
phân phối cho vị tỷ kheo. Người nghỉ ở chỗ được phân
phối cho mình gọi là một người sử dụng đồ nằm như
được phân phối (yathàsanthatika) người theo hạnh này
gọi là hạnh nghỉ chỗ nào cũng được.
xiii. Vị ấy có thói
quen ngồi mà ngủ, không nằm gọi là hạnh ngủ ngồi.
11. Tất cả những hạnh
kể trên gọi là hạnh (anga) của một tỷ kheo theo khổ
hạnh (dhuta- đầu đà) bởi vì vị ấy đã rũ bỏ (dhuta)
cấu uế bằng cách thọ trì một trong những khổ hạnh
ấy. Gọi là "đầu đà" (dhuta) vì nó rũ sạch
(niddhunana) chướng ngại, gọi là hạnh (anga) vì
nó là con đường (patipatti). Trên đây là trình bày ý
nghĩa.
12. 2. Tất cả 13 khổ
hạnh trên điều có đặc tính là ý nguyện thọ trì.
Luận nói: "Người thọ giới là một con người. Cái nhờ
đó nó thọ giới được là tâm và tâm sở. Chính ý chí
trong hành vi thọ giới gọi là hanh đầu đà. Tất cả 13 hạnh
đều có công dụng là loại trừ tham dục và hiện tướng
của chúng là vô tham. Nguyên nhân gần của chúng là những
đức thiểu dục... "
13. 3. Trong thời Phật
tại thế, tất cả khổ hạnh đều phải được thọ trì
trước mặt đức Thế Tôn. Sau khi Ngài nhập Niết bàn, phải
thọ trước một vị đại đệ tử của Ngài. Khi không có
vị này, phải thọ trước một người đã đoạn tận lậu
hoặc, một bậc Bất hoàn, Nhất lai hay Nhập lưu, hoặc một
người thông hiểu 3 tạng hoặc 2 tạng hoặc 1 tạng hoặc một
người thông hiểu 1 trong 5 bộ Nikàya, 1 luận sư Nikàya.
Không có 1 người như vậy thì phải thọ trước 1 vị đang
hành 1 khổ hạnh. Nếu không có một vị như vậy thì nên
quét dọn sạch sẽ điện thờ rồi ngồi mà thọ giới một
cách kính cẩn như đang ở trước mặt đấng Ðạo sư. Như
thế, có thể thọ giới đầu đà một mình.
Ở đây có thể nhắc
lại câu chuyện người anh trong 2 anh em vốn là 2 trưởng lão
ở tu viện Cetiyapabbata, để biết thế nào là thiểu
dục trong đầu đà hành đạo. Vị này theo khổ hạnh ngủ
ngồi một mình mình biết. Một đêm kia, nhơn một làn chớp
loé, người em trong thấy ngài đang ngồi thẳng trên giường
và hỏi: "Bạch đại đức, thế ra ngài theo khổ hạnh
ngủ ngồi à?" Vì thiểu dục, không muốn để ai biết
khổ hạnh của mình, vị ấy bèn nằm xuống. (Pm. 77)
Ðiều này áp dụng cho mọi khổ hạnh.
14. Bây giờ, ta sẽ tiếp
tục bàn về sự thọ giới những chỉ dẫn, các cấp bực,
sự phá giới, và lợi ích của từng khổ hạnh.
i. Ðầu tiên là hạnh
phấn tảo y: nó được thọ trì bằng cách thốt lên một
trong hai lời nguyện này: "Tôi từ chối những y do gia
chủ cúng "hoặc" tôi nguyện giữ khổ hạnh phẩn tảo
y". Ðây là sự thọ giới
15. Một người đã thọ
giới này nên mặc một y thuộc một trong những loại sau: vải
lấy từ nghĩa đại, từ cửa hàng, từ đường cái, từ hố
phân, từ giường trẻ, vải tẩy uế, vải từ chỗ tắm, vải
đi về nghĩa địa, vải bị cháy, bị gia súc ăn, bị kiến
ăn, bị chuột ăn, vải rách ở biên, rách ở đầu, vải làm
cờ, vải bỏ từ điện thờ, y của nhà khổ hạnh, vải từ
cuộc lễ, vải do thần thông biến hoá, vải trên xa lộ, vải
gió bay, vải do thiên thần bố thí, vải trôi giữa biển, lấy
một trong những thứ vải này vị ấy nên xé bỏ những mảnh
rách nát, giặt sạch những mảnh lành lặn để làm thành một
cái y. Vị ấy có thể dùng nó sau khi xả bỏ áo do thí chủ
cúng.
16. "Vải từ nghĩa
địa" là vải rơi rớt ở nghĩa đại. "Vải từ cửa
hàng" là vải rớt trước quán hàng. "Vải từ đường
cái" là thứ vải mà những kẻ kiếm công đức thường
ném qua cửa sổ xuống đường. "Vải từ hố phân"
là vải bỏ thùng rác. "Vải ở giường trẻ" là vải
bỏ sau khi lau những bất tịnh của sản phụ. Mẹ của đại
thần Tissa lau những bất tịnh bằng một mảnh vải
đắt giá, nghĩ rằng những nhà khổ tu mặc phấn tảo y sẽ
lượm, và quăng nó trên đường Tàlaveli. Các tỷ kheo
lượm vá y.
17. "Vải tẩy tịnh"
là vải mà những vị phù thuỷ bắt bệnh nhân dùng để tắm
rửa từ trên đầu trở xuống rồi vứt đi như vứt một sự
xui xẻo "Vải từ chỗ tắm giặt" là những giẻ
rách vứt bỏ ở chỗ tắm. "Vải đi về nghĩa địa"
là vải bỏ sau khi đến nghĩa địa, trở về tắm rửa.
"Vải bị cháy" là vải vì cháy một ít mà người
ta vứt đi" "Vải gia súc ăn chuột ăn" v.v..
nghĩa đã rõ. "vải làm cờ": những người xuống tàu
ra khơi thường tung lên một cái cờ rồi mới đi. Khi tàu
đi khuất, có thể lượm cái cờ này. Lại nữa, khi hai bên
quân đội đã đi khuất, có thể lượm cờ đã được tung
ra giữa chiến địa -90-.
18. "Vải từ điện
thờ" là một tấm vải cúng phủ trên tổ kiến. "Vải
của nhà khổ tu" là y của tỷ kheo. "Vải từ một
cuộc lễ" là vải vứt bỏ ở chỗ làm lễ tấn phong
vua. "Vải do thần thông hoá hiện" là tấâm y do
phép Phật biến hoá lúc ngài nói "Thiện lai tỷ
kheo" (Ehibhikkhu). Trong một vài trường hợp lúc Phật
còn tại thế, Ngài chứng minh sự xuất gia của một người
bằng cách chỉ nói mấy tiếng "lại đây tỷ kheo".
Do công đức đời trước của vị ấy, pháp phục tự
nhiên xuất hiện một cách mầu nhiệm trên người ông.
"Vải từ xa lộ" là vải rơi rớt giữa đường.
Nhưng nếu vì sơ ý mà chủ nhân làm rớt, thì phải chờ một
lúc mới được phép nhặt lên. "Vải gió bay" là vải
theo gió bay 1 đỗi xa mới rớt xuống, được phép lượm nếu
không thấy chủ. "Vải do chư thiên cúng" là vải chư
thiên cúng cho tỷ kheo như trường hợp tôn giả Anuruddha.
"Vải trôi giữa biển" là vải sóng biển đánh tắp
vào bờ.
19. Một tấm vải được
cúng với lời nói "Chúng tôi cũng cho chư tăng", hoặc
do người đi xin vải kiếm được, thì không phải vải bỏ.
Vải do một tỷ kheo tặng, vải do nhận được trong lễ dâng
y do một tỷ kheo tặng lại, vải do thí chủ cúng cho 1 vị
ở trú xứ nào đó, đều không phải vải phế thải. Vải
bỏ là thứ vải được từ một người cho đã không sở hữu
nó với những cách nói trên. Vải do một thí chủ đặt dưới
chân tỷ kheo, rồi tỷ kheo này đem cho người lập hạnh mặc
phấn tảo bằng cách để vào tay vị ấy, gọi là chỉ
thanh tịnh một chiều. Hoặc thí chủ để vào tay một tỷ
kheo, tỷ kheo đem đặt dưới chân vị khổ hạnh, cũng gọi
là chỉ thanh tịnh một chiều. Vải đặt dưới chân tỷ
kheo, tỷ kheo đem đặt dưới chân nhà khổ hạnh, gọi là
thanh tịnh hai chiều. Vải mà người cho đã nhận được bằng
tay, nhà khổ hạnh cũng nhận bằng tay, thì không phải là hạnh
phấn tảo y chặt chẽ. Như vậy, nhà khổ hạnh cần sử dụng
y sau khi biết rõ những loại vải.
20. Và đây là những cấp
bực. Có ba hạng: hạng chặt chẽ, trung bình và thường.
Người lượm vải ở nghĩa địa gọi là hạng chặt chẽ.
Người lượm vải do một người bỏ ra với ý nghĩ "một
tỷ kheo sẽ lượm" gọi là hạng trung bình. Và người
lấy vải do môt tỷ kheo cho mình bằng cách đặt dưới chân
là hạng thường. Lúc nào người ấy bằng lòng nhận một
tấm y từ gia chủ, thì hạnh phấn tảo y của ông bị phá.
Ðây là phá giới ở trường hợp này.
21. Và đây là những lợi
ích. Vị ấy làm đúng theo hạnh. Tùy thuận, như câu:
"Xuất gia bằng cách tùy thuộc vào y phấn tảo" (Vin.
I. 58, 96); vị ấy an lập trong thánh tài thứ nhất (A.
ii, 27); không có sự đau khổ do phải giữ gìn, vị ấy
sống không tùy thuộc vào người khác; không sợ trộm cướp;
không có thèm muốn liên hệ đến y phục; đó là một điều
kiện thích hợp cho 1 ẩn sĩ; được Thế Tôn tán thán vì
"Không giá trị, dễ kiếm, và không lỗi" (A. ii,
26) nó làm cho người ta tin cậy; nó phát sinh những hậu
quả ít muốn, biết đủ v.v... Chánh đạo được tu tập; làm
tấm gương cho hậu lai.
22. Khi nỗ lực đánh bạt
đạo quân Tử thần Nhà khổ hạnh quấn y bằng giẻ rách lượm
từ đống rác, vẫn sáng chói như tướng sĩ lâm trận mặc
giáp sắt. Y phấn tảo này chính đấng Thiên nhân sư cũng mặc
từ bỏ hàng Kàsi quý giá cùng những thứ khác Vậy,
ai mà không nên mặc Y bằng giẻ lượm từ đống rác? Nhớ
lời đã phát nguyện khi ra đi sống kiếp không nhà. Hãy
hân hoan mặc y phấn tảo như người ta trang sức xiêm y mỹ
lệ. Ðấy là thọ giới, chỉ dẫn, cấp bực, sự phạm giới,
và những lợi lạc trong khổ hạnh phấn tảo y.
23. ii. Kế tiếp, hạnh
ba y. Giới này được thọ trì bằng cách nói: "Tôi
không nhận cái y thứ tư" hoặc "tôi giữ giới mặc
ba y". Khi một người thọ giới này được vải để làm
y, vị ấy có thể giữ nó trong thời gian vì thiếu sức khỏe
không thể may y, hoặc chưa tìm ra người giúp, vì thiếu
kim. v. v.. Thì cất giữ vải không có lỗi. Nhưng khi y đã
được nhuộm thì không được cất giữ vải. Ðó là khổ
hạnh bịp. Ðây là sự chỉ dẫn.
24. Về hạnh ba y cũng
có ba cấp bậc. Người theo khổ hạnh ba y một cách nghiêm
nhặt thì trong lúc nhuộm, trước phải nhuộm hoặc y trong
hoặc thượng y, nhuộm cái này xong, quấn nó ngang lưng mà
nhuộm cái khác. Xong, vắt nó lên vai mà nhuộm y khoác ngoài
bá nạp. Nhưng vị ấy không được quấn y ba nạp quanh thất
lưng. Ðây là luật khi ở một trú xứ tại xóm làng, nhưng
ở rừng thì có thể nhuộm, giặt cả ba y một lượt nhưng
phải ở gần để nếu thấy người thì có thể kéo một tấm
mà đắp lên mình. Ðối với người theo cấp bậc trung bình
thì có thể dùng một tấm vải vàng để trong phòng nhuộm
đắp lên mình trong khi giặt nhuộm. Ðối với người theo cấp
bực ba (lỏng lẻo) thì có thể mặc hay khoác y của tỷ
kheo trong hoà hợp chúng (nghĩa là, vị nào không bị phạtv.v..)
để giặt nhuộm. Một tấm vải trải giường bỏ không, cũng
có thể dùng song không được mang theo. Vị này cũng có thể
thỉnh thoảng sử dụng y của tỷ kheo trong hoà hợp chúng.
Người theo khổ hạnh ba y còn có thể dùng một tấm vải
vàng che vai kể như y thứ tư, không được rộng quá một
gang, dài quá chiều dài 3 bàn tay. Lúc nào người theo một
trong ba cấp bực khổ hạnh ấy tự động nhận một tấm y
thứ tư, thì khổ hạnh bị hỏng. Ðây là sự phá giới
trong trường hợp này.
25. Khổ hạnh ba y có
những lợi lạc như sau. Vị tỷ kheo thọ trì khổ hạnh
này xem y phục chỉ như vạt che thân. Vị ấy đi đâu cũng
chỉ mang theo ba y như chim mang đôi cánh; kiện toàn các đức
tính vật dụng, không tích trữ vải, sống đạm bạc, từ
bỏ tánh tham y phục, sống viễn ly, tiết độ ngay cả đối
với những gì hợp pháp, phát sinh tính ít muốn biết đủ.
26.
Không lo sợ tích trữ
Không giữ quá ba y
Bậc trí thưởng thức được
Hương vị của hỉ túc
Du hành không chướng ngại
Như chim bay hư không
Chỉ mang theo hai cánh
Tỷ kheo nên hoan hỉ
Hạnh đạm bạc ba y
27. iii. Hạnh khất
thực được thọ trì bằng cách thốt lên như sau:
"Tôi không nhận đồ ăn để dành (tàn thực)" hoặc:
"Tôi thọ trì hạnh khất thực hàng ngày". Người
đã thọ giới này không được nhận 14 thứ thực phẩm
như sau: bữa ăn cúng cho một số tỷ kheo đặc biệt, bữa
ăn do người ta mời, bữa ăn được mời bằng một phiếu
ăn, bữa ăn vào ngày lễ trai giới Uposatha (bố tát),
bữa ăn cho kẻ lữ hành, bữa ăn cho người bệnh, bữa ăn
cho kẻ nuôi bệnh bữa ăn cúng cho một trú xứ nào đó, bữa
ăn được bố thí tại một ngôi nhà chính (dhurabhatta
principal house?), bữa ăn cúng theo thứ tự. Nếu, thay vì
nói "Xin thỉnh đại đức dùng một bữa ăn cúng cho chư
tăng" thí chủ lại nói "Chư tăng đang khất thực tại
nhà tôi, đại đức có thể đến khất thực tại nhà tôi,
đại đức có thể đến khất" thì có thể nhận lời.
Những phiếu tăng chúng phát ra không phải về thực phẩm
mà về các vật khác (thuốc men v.v...) hoặc một bữa ăn
được nấu trong một tu viện, nhà khổ hạnh đều được
dùng.
28. Giới này cũng có
ba bực. Người khổ hạnh cấp một (khắt khe) nhận đồ
ăn do người ta đem lại từ phía trước mặt và sau lưng
(đi quá rồi thí chủ mới chạy theo cúng), và đưa bát cho
thí chủ rồi đứng chờ ngoài cổng. Vị ấy cũng nhận đồ
ăn mang lại cúng dường tại nhà ăn nhưng vị ấy không nhận
đồ khất thực bằng cách ngồi đợi người ta mang đến.
Người khổ hạnh cấp hai thì ăn đồ ngồi đợi mang đến
(trong ngày hôm đó) nhưng không ăn đồ người ta hứa mang lại
cúng hôm sau. Người theo khổ hạnh cấp ba bằng lòng ăn đồ
ăn được hứa mang đến hôm sau, và hôm sau nữa. Cả hai hạng
sau đều mất cái thú hưởng môït cuộc đời độc lập. Ví
dụ có thể có một buổi thuyết pháp về Thánh tài ở một
thôn ấp nào đó. Người cấp một bảo hai hạng kia:
"Chư hiền, chúng ta hãy đi nghe pháp" Một người bảo:
"Bạch đại đức, tôi đã được một thí chủ bảo ngồi
đây đợi". Người cấp hai bảo: "bạch đại đức,
tôi đã nhận lời mời đồ khất thực ngày mai". Bởi
thế cả hai vị này đều mất mát. Còn vị đầu tiên thì
cứ khất thực vào buổi sáng, rồi đi thẳng đến chỗ
nghe pháp, thưởng thức pháp vị. Lúc một trong ba hạng ấy
bằng lòng với một lợi dưỡng ngoài phạm vi nói trên, nghĩa
là ăn đồ cúng cho chúng tăng, v.v... Thì khổ hạnh bị
phá.
29. Hạnh khất thực
có những lợi lạc như sau. Vị ấy làm đúng như Luật dạy,
"Xuất gia tùy thuộc vào sự nuôi sôùng bằng khất thực".
Vị ấy an lập trong thánh tài thứ hai; sự sống của vị
này không lệ thuộc vào kẻ khác, và Thế Tôn đã ca ngợi
đồ ăn khất thực là "không giá trị, dễ kiếm và
không lỗi" (A ii, 26); sự phóng dật được trừ
khử, mạng sống được thanh tịnh, việc thực hành những
học pháp thuộc tiểu giới được viên mãn; vị ấy không
do một người khác nuôi sống (không nhờ vào, lệ thuộc
vào một người nào) vị ấy giúp đỡ mọi người, từ bỏ
kiêu mạn, lòng tham vị ngon được chế ngự, không phạm những
học giới liên hệ đến ăn. Ðời sống vị ấy phù hợp với
những nguyên tắc thiểu dục tri túc v.v.. Tu tập chánh đạo,
thương tưởng đến những đời hậu lai.
30.
Tỷ kheo vui khất thực
Ðời sống không lệ thuộc
Tham dục không chân đứng
Giải thoát như hư không
Tinh cần, không giải đãi
Mạng sống không lỗi lầm
Bởi vậy người có trí
Không khinh thường khất thực.
Vì kinh dạy:
"Nếu tỷ kheo có thể
Tự nuôi bằng khất thực
Sống không tùy thuộc vào
Sự giúp của riêng ai
Không màng đến danh dự
Lợi dưỡng chẳng đoái hoài
Thì đến cả chư thiên
Cũng them số phận Người". (Ud. 31)
31. Hạnh khất thực
từng nhà được thọ trì bằng cách phát nguyện:
"Tôi không làm một vòng khất thực tham ăn" hoặc:
"tôi theo hạnh khất thực từng nhà". Người tuần
tự khất thực này dừng lại ở cổng vào làng, nên biết
chắc sẽ không có gì nguy hiểm. Nếu có nguy hiểm tại một
con đường hay một làng nào, vị ấy được phép gạt bỏ
nơi ấy để đi khất thực chỗ khác. Khi có một cái nhà,
một con đường hay một khu làng nơi đó vị ấy thường
xuyên không được thứ gì, thì có thể bỏ qua chỗ đó. Nhưng
nơi nào có xin được chút đỉnh, thì sau đó không được
bỏ qua chỗ ấy. Vị ấy nên đi vào làng sớm, để có thể
bỏ ra ngoài những chỗ bất lợi và đi chỗâ khác. Nếu
có thí chủ cúng thức ăn cho chùa, hoặc đang đi giữa đường,
lấy cái bát vị ấy để đặt thức ăn vào, vị ấy được
phép nhận. Trên đường đi, không được bỏ qua khu làng
nào. Nếu không xin được gì ở đấy hoặc rất ít, thì
nên tuần tự khất thực ở các làng kế tiếp.
32. Hạnh này cũng có
ba bực. Hạng khất thực tuần tự một cách chặt chẽ thì
không nhận đồ ăn mang đến từ trước mặt hoặc từ sau
lưng, hoặc mang đến cúng tại nhà ăn. Nhưng vị ấy chìa
bát tại một cửa nhà; vì trong khổ hạnh này, không ai
sánh bằng trưởng lão Ðại Ca Diếp, thế mà Ngài cũng có
lần chìa bát như được thuật (trong Ud. 29). Vị theo
khổ hạnh cấp hai nhận dồ ăn đem đêùn từ trước, từ
sau lưng, và tại nhà ăn, và vị ấy chìa bát tại một cửa
nhà, nhưng không ngồi mà đợi đồ ăn khất thực. Như vậy,
vị ấy làm đúng luật của người ăn đồ khất thực một
cách chặt chẽ. Người khổ hạnh cấp ba thì ngồi đợi đồ
ăn mang đến nội nhật hôm ấy.
Khổ hạnh của ba hạng
nói trên bị phá khi họ khởi sự làm vòng khất thực tham
ăn (bằng cách chỉ đến những nhà bố thí đồ ăn ngon lành).
Ðây là sự phạm giới trong khổ hạnh khất thực.
33. Những lợi ích như
sau. Vị ấy luôn luôn là một người khách lạ tại các
nhà như mặt trăng (S. ii, 197); vị ấy từ bỏ sự
tham lẫn về những gia đình; có lòng từ mẫn một cách
bình đẳng; vị ấy tránh được những nguy hiểm của sư
được ủng hộ bởi một gia đình duy nhất, vị ấy không
thích thú trong sự mời ăn, không hy vọng đồ ăn được
mang đến; đời sống vị ấy thích hợp với hạnh thiểu dục
tri túc v.v...
34.
Tỷ kheo tuần tự khất
Như trăng chiếu ngàn nhà
Nhìn luôn luôn mới mẻ
Không tham, giúp mọi người
Thoát khỏi mối nguy hiểm
Vì lệ thuộc một nhà
Muốn từ bỏ tham dục
Ðể du hành tùy thích
Khi đi mắt nhìn xuống
Trước mặt một tầm cày
Tỷ kheo hãy thận trọng
Từng nhà tuần tự khất.
35. v. Khổ hạnh nhất
toạ thực được thọ trì bằng cách lập nguyện theo hạnh
nhất toạ thực.
Khi người theo khổ hạnh
này ngồi xuống trong phòng ăn, thì phải ngồi đúng chỗ
dành cho mình. Nếu giáo thọ sư hay y chỉ sư của vị ấy
đến trong lúc bữa ăn chưa xong, vị ấy được phép đứng
lên để chào. Nhưng Trưởng lão Tam tạng Cìla-abhaya nói:
"Vị ấy nên ngồi mà ăn cho xong, hoặc nếu đứng lên
thì phải bỏ đồ ăn còn lại". (để khỏi vi phạm khổ
hạnh)
36 Khổ hạnh này cũng
có ba bực. Người theo cấp một (nghiêm nhặt) không được
ăn nhiều hơn những gì mình đã lấy một lần vào bát, Nếu
có người nang thêm bơ v.v.. Có thể dùng làm thuốc chữa bệnh,
chứ không để ăn. Người theo cấp hai có thể nhận thêm,
nếu trong bát chưa hết, vì vị này là người" ngừng
ăn khi đồ ăn trong bát đã sạch". Người theo cấp ba có
thể ăn bao lâu chưa rời chỗ, vị này là người" ngừng
ăn theo nước" vì ăn cho đến khi lấy nước để tráng
bát hoặc ngừng ăn theo chỗ ngồi, vì vị ấy ăn cho đến
khi nào đứng dậy. Khổ hạnh của cả ba hạng này bị phá
khi họ ăn hơn một lần. Ðó là sự phá giới trong hạnh nhất
toạ thực.
37. Khổ hạnh ấy có
những lợi lạc này: vị ấy ít bịnh, ít não, thân thể nhẹ
nhàng, có sức khoẻ, có một đời sống hạnh phúc, không
vi phạm những học giới về ăn, loại trừ lòng tham vị
ngon và sống thiểu dục tri túc.
38.
Không có bịnh do ăn
Tỳ kheo nhất toạ thực
Khỏi hy vọng vị ngon
Bỏ phế cả đạo nghiệp
Vị ấy được hạnh phúc
Tâm tư thật trong sáng
Thanh tịnh và viễn ly
Hưởng hiện tại lạc trú.
39. vi. Hạnh ăn một
bát; Ðược thọ trì, với 1 lời nguyện: "Tôi từ
chối bát thứ hai" hoặc "Tôi giữ hạnh ăn bằng bát".
Khi ăn cháo người theo khổ hạnh này được dùng cà ri để
trong 1 cái dĩa, vị ấy được phép hoặc ăn cà ri trước
hoặc uống hết nước cháo trong bát rồi bỏ cà ri vào, vì
nếu bỏ cà ri vào bát trộn chung với cháo thì sẽ rất
khó ăn (lợm). Nhưng nếu đồ ăn không lợm thì phải để
vào trong bát mà ăn. Khi lấy đồ ăn, nên lấy vừa phải lượng
cần dùng bởi vì vị ấy không được lấy bát thứ hai.
40. Khổ hạnh này cũng
có ba bực. Cấp 1 thì trừ mía, không được ném bỏ rác bẩn
trong khi ăn hoặc bẻ nhỏ các miếng ăn. Rác bẩn phải được
vứt bỏ, đồ ăn phải được bẻ nhỏ trước khi ăn. Người
theo cấp 2 được bẻ nhỏ đồ ăn trong khi ăn, vị ấy là
"khổ hạnh ăn bằng tay". Cấp 3 gọi là "khổ hạnh
ăn bằng bát", bất cứ gì để vào bát, vị ấy đều
được phép trong khi ăn, bẻ nhỏ ra (cơm cục v.v...) bằng
tay hoặc bằng răng (đường thốt nốt gừng v.v..) Khi 1
trong 3 người nói trên bằng lòng nhận một bát thứ hai
thì khổ hạnh của họ bị phá
41 Khổ hạnh này có những
lợi lạc sau: lòng tham nhiều vị được trừ khử, mong cầu
thái hoá được từ bỏ, vị ấy thấy rõ mục đích và lượng
thức ăn vừa đủ, không bận tâm mang theo soong chảo, đời
sống vị ấy phù hợp với nguyên tắc thiểu dục tri túc,
v.v...
42.
Vị ấy khỏi hoài nghi
Về những thức ăn khác
Nhìn bát ăn trang nghiêm
Dứt sạch lòng tham vị
Hài lòng tính tự nhiên
Chánh ý tâm hoan hỉ
Người khổ hạnh một bát
Ðược tư cách như trên
43. vii. Khổ hạnh Không
ăn đồ tàn thực (đồ nhận được sau khi đã ăn xong)
được thọ trì bằng cách phát nguyện: "Tôi từ chối
đồ ăn thêm" hoặc "Tôi thọ giới không ăn tàn thực".
Khi vị giữ hạnh này chứng tỏ mình đã ăn đủ thì không
được nhận thức ăn để ăn.
44. Có ba bực. Ở đây
không có gì chứng tỏ vị ấy đã ăn vừa với miếng đầu
tiên, song khi đang nuốt miếng ấy mà từ chối, thì có sự
chứng tỏ đã ăn đủ. Bởi thế, người theo cấp 1 khi đã
chứng tỏ mình ăn vừa đủ thì không thể nhận miếng thứ
hai để ăn sau khi nuốt miếng thứ nhứ Người theo khổ
hanh cấp 2 thì cứ vẫn ăn sau khi đã nói thôi. Người theo
cấp 3 có thể tiếp tục ăn cho đến khi rời khỏi chỗ. Lúc
nào 1 trong 3 người ấy ăn thêm sau khi đã ăn xong thì khổ
hạnh bị hỏng. Ðây gọi là phá giới trong trường hợp này.
45. Khổ hạnh này có
những lợi ích như sau:
Vị ấy khỏi lỗi liên
hệ đến đồ ăn tàn thực, khỏi bị bội thực, khỏi cất
giữ thức ăn, khỏi tìm kiếm thêm đồ ăn. Vị ấy sống
đúng theo hạnh thiểu dục tri túc v.v....
46.
Không ăn đồ tàn thực
Khỏi tìm kiếm nhọc công
Khỏi cất chứa đồ ăn
Và cũng không bội thực
Muốn tránh những lỗi này
Thì nên theo hạnh ấy
Ðược Thế Tôn ca tụng
Vì tăng trưởng hỉ túc
47. viii. Hạnh ở rừng
được thọ trì với một lời nguyện: "Tôi không ở một
trú xứ trong xóm làng" hoặc "Tôi lập hạnh sống
ở rừng".
48. Người lập nguyện
này phải rời bỏ trú xứ trong xóm làng để vào rừng lúc
bình minh. "Trú xứ trong làng" có nghĩa là khu làng
và phụ cận. "Làng" có thể gồm 1 hay nhiều nóc
nhà tranh, có thể được bao quanh bằng tường hay không, có
thể có người ở hay không, cũng có thể là một khu trại
có người ở trong khoảng hơn 4 tháng. "Phụ cân" của
làng là phạm vi một hòn đá rơi xuống do người có tầm
vóc trung bình đứng ở cổng làng ném ra, nếu làng có cổng.
Theo các Luật sư thì phụ cận là tầm ném đá của một
thanh niên luyện cánh tay bằng cách ném đa. Theo luận sư
căn cứ vào kinh, thì chỉ là tầm ném đá khi người ta đuổi
quạ. Nếu làng không có tường ngăn ranh giới thì "phụ
cận của nhà" là tầm nước rơi do một người đàn
bà đứng từ cửa nhà ở bìa, bưng đổ hắt ra. Từ điểm
nước rơi, tầm ném đá theo cách vừa kể gọi là làng. Từ
chỗ này, trong phạm vi ném hòn đá thứ hai, là phủ cận
làng.
49. "Rừng" theo
định nghĩa của Luật là "Trừ làng và phụ cận, tất
cả đất còn lại là rừng". (Vin. iii, 46). Theo Luận
thì "Ra khỏi" trụ mốc ranh giới làng gọi là rừng".
(Vbh. 25l). Nhưng theo kinh, thì đặc điểm của rừng là
"Một trú xứ ở rừng là khoảng cách 500 độ dài của
cái cung" (Vin. iv, 183). Có nghĩa là phải đo bằng
cung của người dạy bắn cung từ cột trụ cổng làng nếu
có, hoặc từ một tầm đá ném nếu làng không cổng, cho đến
bức tường của trú xứ tự viện ở rừng.
50. Nhưng nếu tự viện
không có tường thì theo các Luật giải, do bằng cách lấy
cái nhà ở đầu tiên làm ranh giới, hoặc lấy nhà ăn, chỗ
họp, cây bồ đề, chánh điện làm ranh, dù cách xa nhà ở
trong tự viện. Nhưng Luận Trung bộ nói bỏ vùng phụ cận
của viện và của làng, khỏng cách phải do là giữa hai tầng
đá rơi.
51. Ngay cả khi làng ở
gần kề, có thể nghe tiếng người từ trong tự viện, tự
viện ấy vẫn được xem là trú xứ ở rừng nếu khoảng
giữa có những mỏm đá, sông v.v... Ngăn cách không thể đi
thẳng đến và độ dài khoảng cách đường thuỷ là 500
cung. Nhưng nếu người nào cố ngăn bít chỗ này chỗ kia
trên đường vào làng, làm cho nó dài ra để có thể bảo rằng
mình làm đúng luật thì đó là khổ hạnh bịp.
52. Nếu y chỉ sư hay
giáo thọ sư của hành giả bị bịnh và ở rừng không thể
kiếm đư?c những gì cần cho bịnh, thì có thể đưa thầy
đến một trú xứ ở làng để săn sóc nhưng phải rời làng
đúng lúc để trở lại rừng vào lúc rạng đông. Nếu cơn
bịnh gia tăng vào lúc trời gần sáng thì hành giả phải lo
cho vị thầy chứ không được bận tâm về sự giữ gìn khổ
hạnh của mình.
53. Khổ hạnh này cũng
có ba bực. Cấp 1, người ấy phải luôn luôn trở về rừng
vào lúc bình minh. Cấp 2, có thể cư trú tại 1 khu làng vào
bốn tháng mùa mưa. Cấp 3, có thể ở làng luôn cả mùa đông.
Nếu trong thời gian đã định, 3 hạng nói trên rời rừng
để đi nghe pháp tại một trú xứ ở làng, khổ hạnh của
họ không bị hỏng nếu trở lại rừng đúng lúc bình minh.
Nhưng nếu giảng sư đã đứng lên mà vị ấy nằm 1 lát rồi
ngủ quên khi mặt trời đã mọc, hoặc ở lại cố ý, cho
đến khi mặt trời mọc, thì khổ hạnh ở rừng bị phá.
54. Và đây là những lợi
lạc trong khổ hạnh ở rừng. Một tỷ kheo ở rừng tác ý
vào lâm tưởng (xem M. 121) có thể đạt được ngay
trong hiện tại định tướng chưa đạt, hoặc duy trì định
tướng đã đạt. Bậc Ðạo sư hài lòng về vị ấy, như
kinh nói: "Này Nàgita, ta hài lòng về vị tỷ kheo
sống ở rừng" (A. iii, 343) Khi sống tại một trú
xứ xa vắng, tâm hành giả không bị dao động bởi những sắc
pháp không thích đáng v.v.. Vị ấy khỏi những lo âu, từ bỏ
bám víu vào đời và thưởng thức lạc thú độc cư. Hạnh
đầu đà khác như phấn tảo y v.v... Dễ dàng tu tập đối
với vị ấy.
55.
Ðộc cư nơi xa vắng
Làm cho tâm hân hoan
Ðấng Ðạo sư hài lòng
Vị độc cư rừng thẳm,
Ngưởi vui hạnh ở rừng
Lại được hưởng hương vị
Còn hơn cả giá trị
Hạnh phúc của vua trời
Áo giáp y phấn tảo
Tung tăng trong rừng già
Lâm tuyền dễ thực hiện
Bao nhiêu hạnh đầu đà
Tỳ kheo ấy chắc chắn
Làm quần ma kinh hoảng
Bởi thế người có trí
Nên vui hạnh ở rừng.
56. ix. Hạnh ở gốc
cây: Ðược thọ trì bằng cách thốt lời nguyện: "Tôi
từ chối một mái nhà" hoặc "Tôi theo khổ hạnh
ở gốc cây" Vị theo khổ hạnh này nên tránh những loại
cây như sau: cây gần chỗ biên giới, cây có thờ cúng, cây
cao su, cây ăn trái, cây có nhiều dơi, cây có lỗ hổng,
cây đứng giữa một tự viện. Vị ấy có thể chọn một
gốc cây ở phía ngoài một ngôi chùa. Ðây là chỉ dẫn.
57. Khổ hạnh này cũng
có ba bực. Cấp 1 không được phép quét dọn sạch sẽ gốc
cây đã chọn, mà chỉ có thể dùng chân để hất đi những
lá rụng trong khi ở. Người theo cấp 2 có thể nhờ 1 người
nào đi ngang quét dọn gốc cây. Cấp 3 có thể sai những
chú tiểu trong chùa quét, san bằng đất, rải cát, làm rào
quanh gốc cây với một cái cổng vào. Ðến ngày lễ lạc,
người ở gốc cây nên ngồi vào một chỗ nào khuất nẽo.
Lúc nào một trong ba hạng nói trên có trú xứ dưới một mái
che thì khổ hạnh bị phá.
58. Những lợi lạc
là, vị ấy làm đúng theo Luật nói: "Xuất gia bằng
cách tùy thuộc vào trú xứ gốc cây" (Vin. i, 58)
được đức Ðạo sư tán thán, vì "không có giá trị,
dễ kiếm và không lỗi" (A. ii, 26); tưởng về vô
thường được khơi dậy khi thấy lá cây luôn thay đổi, sự
tham chỗ trú và ưa xây cất không có mặt nơi vị ấy, vị
ấy sống cộng trú với chư thiên, phù hợp nguyên tắc ít
muốn, v.v...
59.
Ðức đạo sư ca tụng
Một trong những tùy thuộc
Chỗ nào bằng gốc cây
Cho người ưa tịch tĩnh?
Ðộc cư dưới gốc cây
Ðược chư thiên hộ vệ
Vị ấy sống chơn tu
Không tham về trú xứ
Nhìn lá cây xanh non
Trở màu đỏ lục vàng
Lần lượt đều rơi rụng
Hết tin ở trường tồn.
Ðức đạo sư phú chúc
Gốc cây nơi vắng vẻ
Không người trí nào chê
Vì dễ quán sinh diệt.
60. x. Hạnh ở ngoài
trời: Ðược thọ trì bằng cách thốt lời nguyện:
"Tôi từ chối mái nhà và gốc cây" hoặc "Tôi
tu hạnh ỏ giữa trời". Người theo hạnh này được phép
đi vào nhà Bố tát để nghe pháp hoặc bố tát. Nếu trong
khi vị ấy đang ở trong nhà mà trời mưa, vị ấy có thể
chờ hết mua rồi đi ra. Vị ấy có thể vào nhà ăn, nhà bếp
để làm phận sự hoặc vào dưới một mái che để hỏi những
thượng toạ tỳ kheo về một bữa ăn, vào để dạy hay học,
để khuân vác đồ đạc từ ngoài. Nếu đang đi mang theo đồ
dùng của các thượng toạ mà trời đổ mưa thì được vào
một chỗ trú cho nhanh, nhưng nếu không mang gì cả thì phải
đi với tốc độ bình thường vào chỗ trú. Luật này cũng
áp dụng cho người ở gốc cây. Ðây là chỉ dẫn.
61. Có ba cấp bực. Cấp
1 không được ở gần một gốc cây, mỏm đá hay nhà. Phải
dùng một tấm y làm lều mà ở giữa trời. Cấp 2 được
ở gần một gốc cây, tảng đá, nhà, mà không ở dưới đó.
Cấp 3 thì có thể ở dưới một hốc đá không có ống
máng (đục để ngăn mưa lọt), dưới lều bằng cành cây,
dưới một tấm lều vải được hồ cho cứng và dưới một
cái lều của người canh ruộng bỏ không.
Lúc họ đi vào dưới
một mái nhà hay một gốc cây để ở thì khổ hạnh bị
phá. Những vị tụng Tăng chi bộ bảo, khổ hạnh của
họ bị phá khi một trong ba hạng cố ý ở dưới một gốc
cây... vào lúc mặt trời đã mọc.
62. Có những lợi lạc
như sau: Khỏi có những chướng ngại do chỗ trú gây ra, trừ
được hôn trầm biếng nhác. Hạnh của vị ấy xứng đáng
lời ca tụng "như thú rừng, tỳ kheo ấy sống không
ràng buộc và không nhà" (S. i, 199). Vị ấy thong
dong, muốn đi đâu cũng được, sống phù hợp với nguyên tắc
ít muốn, biết đủ...
63.
Nhờ ở nơi khoảng trống
Tỳ kheo thêm tinh cần
Dẽ kiếm, tâm bén nhạy
Như con nai giữa rùng
Hết hôn trầm biếng nhác
Dưới vòm trời đầy sao
Trời trăng làm ánh sáng
Thiền định đem hân hoan
Hương vị độc cư lạc
Vị ấy sẽ tìm được
Khi sống giữa đất trời
Người trí hãy yêu thích
64. xi. Hạnh ở nghĩa
địa được thọ trì với lời nguyện: "Tôi từ chối
chỗ trú không phải nghĩa địa" hoặc "Tôi tập hạnh
sống tại nghĩa địa".
Người ấy không được
ở một nơi chỉ có cái tên là "đất nghĩa trang" vì
chỗ nào không có tử thi được đ?t thì không phải nghĩa
địa. Nhưng khi đã có tử thi đã được đốt ở đấy, thì
chỗ ấy trở thành nghĩa địa, dù có bị bỏ phế đã hơn
10 năm.
65. Một người sống
ở nghĩa địa không được sai làm sẳn những đường đi,
lều trại... đặt sẳn bàn ghế giường, nước rửa, nước
uống và giảng pháp, vì khổ hạnh là việc trong đại hơn
vị ấy phải tinh cần và phải báo cho các bậc trưởng lão
hoặc chính quyền địa phương biết để ngăn ngừa sự lôi
thôi. Khi đi kinh hành, nên vừa đi vừa nhìn giàn hoả (để
thiêu tử thi) với nữa con mắt. Trên đường đi đến
nghĩa địa, vị ấy phải tránh những chính lộ và theo con
đường mòn. Cần nhận kỹ những sự vật ở đấy vào
lúc ban ngày để về đêm, khỏi tưởng ra những hình thù
ghê sợ. Ngay cả lúc phi nhân (ma) có đi vất vưởng vừa
đi vừa rú lên, vị ấy cũng không được ném vật gì vào
những hồn ma ấy. Không được bỏ công việc đi đến
nghĩa địa dù chỉ một ngày. Những vị tụng đọc Tăng
chi bộ kinh bảo, sau khi trải qua canh giữa tại nghĩa địa,
hành giả được phép rời khỏi vào canh cuối. Không được
ăn những thứ như bột mè, bánh bao, cá thịt, sữa, dâu...
Những thứ ma ưa thích. Không được đi vào những gia đình.
Ðây là chỉ dẫn.
66. Khổ hạnh này cũng
có 3 bực. Cấp 1 phải sống tại những nơi luôn luôn có việc
thiêu đốt, tử thi và tang lễ. Cấp 2 được phép sống ở
nơi chỉ có 1 trong 3 điều ấy. Cấp 3 có thể sống tại 1
nơi chỉ có những đặc tính của một nghĩa địa như đã
nói trên. Khi 1 trong 3 hạng người ấy có trú xứ tại một
nơi không phải nghĩa địa thì khổ hạnh bị phá. Những vị
tụng đọc Tăng bộ chi thì bảo khổ hạnh bị phá vào
ngày nào mà 1 trong 3 hạng ấy không đi đến nghĩa trang.
67. Những lợi ích như
sau: Hành giả được sự tưởng niệm về cái chết, sống
tinh tấn, tưởng bất tịnh luôn hiện tiền, tham dục biến
mất vì luôn luôn thấy được thực chất của thân thể. Vị
ấy có tỉnh giác cao độ, từ bỏ 3 kiêu mạn, về sự sống,
tuổi trẻ và vô bịnh, chinh phục sợ hãi khiếp đảm, phi
nhân tôn trọng vị ấy. Vị ấy sống đúng theo hạnh tri
túc thiểu dục...
68.
Hành giả ở nghĩa địa
Ngủ cũng thường tinh tấn
Tử tưởng luôn hiện tiền
Tham dục nào bén mảng
Ý thức đời phù du
Tận trừ mọi kiêu mạn
Với người hướng Niết bàn
Hạnh này nhiều lợi lạc.
69. Xii. Khổ hạnh nghỉ
đâu cũng được thọ trì bằng cách phát nguyện: "Tôi
từ bỏ lòng tham đắm sàng toà" hoặc "Tôi giữ hạnh
nghỉ đâu cũng được".
Người lập hạnh này
phải bằng lòng với bất cứ chỗ nghi nào mình có được,
khi người phân phối bảo: "Chỗ này thuộc về
ông" vị ấy không được bảo người nào dời chỗ.
70. Có 3 cấp bực. Cấp
1 không được hỏi thăm về trú xứ dành cho minh, như:
"Có xa không?" hoặc "Có quá gần không?" hoặc
"Chỗ ấy nóng không?" hoặc "Chỗ ấy lạnh
không?" Cấp 2 được phép hỏi nhưng không được đi
quan sát trước. Cấp 3 thì được đem quan sát trước và nếu
không thích, có thể chọn một chỗ ở khác. Khi lòng tham đối
với trú xứ khởi lên trong tâm những vị này, thì khổ hạnh
bị hỏng. Ðây là phá giới ở khổ hạnh này.
71. Có những lợi lạc
như sau vị ấy làm đúng lời khuyên "Vị tỳ kheo nên hỷ
túc với những gì mình có được" (Vin. iv, 259), có
tâm nghĩ tưởng đến những người đồng phạm hạnh, từ
bỏ so đo cao thấp, bỏ tâm thuận nghịch, đóng cái cửa
tham muốn, sống theo hạnh thiểu dục tri túc...
72.
Người ở đâu cũng được
Hài lòng cái mình có
Ngủ nghỉ trong an lạc
Dù trên đệm cỏ khô
Không ham cầu chỗ thấp xấu
Không ghét chỗ thấp xấu
Giúp đỡ bạn đồng tu
Tỳ kheo còn ngơ ngáo
Bởi vậy người có trí
Hỷ túc với sàng toà
Ðây hạnh đáng yêu mến
Ðược Thế Tôn khen ngợi
73. xiii. Khổ hạnh
ngồi được thọ trì bằng cách phát nguyện: "Tôi sẽ
không nằm" hoặc "Tôi giữ hạnh không nằm"
Hành giả có thể đứng
hoặc đi bất cứ giờ nào trong đêm vì chỉ cấm nằm.
Ðây là chỉ dẫn.
74. Có 3 cấp bực. Cấp
1 không được dùng 1 chỗ tựa lưng hay dây vải băng ngang
người hoặc nịt lưng (phòng khi ngủ bị té). Cấp 2 được
dùng bất cứ thứ nào trong 3 loại ấy. Cấp 3 được dùng
1 chỗ tựa, 1 băng vải, 1 nịt lưng, 1 gối dựa, 1 "cái
5 chân" và 1 "cái 7 chân". Cái 5 chân là dụng cụ
gồm 4 chân và chỗ dựa lưng (ghế tựa). Cái 7 chân là dụng
cụ gồm 4 chân, chỗ dựa lưng và 2 bên có chỗ tỳ cánh
tay (ghế dựa). Cái 7 chân là dụng cụ gồm 4 chân, chỗ dựa
lưng và 2 bên có chỗ ghế như vậy đã được chế cho trưởng
lão Pìthàbhaya (Abhaya ngồi ghế). Vị này chứng quả
Bất hoàn trước khi viên tịch. Khi 1 trong 3 hạng người ấy
nằm thì khổ hạnh của họ bị phá.
75. Những lợi ích như
sau: xiềng xích trói buộc tâm, như "Vị ấy say mê lạc
thú nằm dài, nghỉ ngơi, biếng nhác," bị cắt đứt, dễ
chú tâm vào đề mục thiền định, để tinh cần tinh tấn,
phát triển hạnh tu.
76.
Ẩn sĩ ngồi kiết già
Bàn chân trên hai vế
Lưng thẳng ngồi bất động
Làm kinh động ác ma.
Không ưa thú nằm dài
Sa đoạ trong biếng lười
Tùy kheo ngồi an nghỉ
Sáng chói khổ hạnh lâm
Hỷ lạc siêu thế gian
Tuôn phát từ hạnh ấy
Người có trí do vậy
Yêu mến khổ hạnh ngồi.
Trên đây là luận về
thọ giới, chỉ dẫn, cấp bực, sự vi phạm và những lợi
lạc trong khổ hạnh ngồi.
77. Bây giờ, hãy luận
về những điểm kế tiếp xem số 3, 4, 5, 6, 7.
78. Về phương diện Ba
tánh: Tất cả khổ hạnh của hữu học, phàm phu và
A-la-hán đều có thiện hay bất định, chứ không khổ hạnh
nào bất thiện (bất định là trường hợp A-la-hán). Nhưng
nếu có người bảo cũng có khổ hạnh bất thiện vì kinh
nói: " Người có ác dục, làm mồi cho dục, trở thành
một vị sống ở rừng" (A. iii, 219)... Thì nên trả
lời: "Người nào có trú xứ trong rừng thì gọi là người
ở rừng, nhưng vị ấy có thể là người có ác dục hay
thiểu dục. Nhưng như đã nói (đoạn 11), những khổ hạnh
ấy sở dĩ được gọi là đầu đà (dhuta) vì hành giả
đã rũ sạch (dhuta) cấu uế bằng cách thọ trì một
trong những khổ hạnh ấy. Không ai gọi là khổ hạnh vì người
bất thiện có thể hành trì, mà đã bất thiện thì không
thể rũ sạch được thứ gì để có thể gọi hạnh của kẻ
đó làm là khổ hạnh. Và cái gì bất thiện thì không thể
vừa rũ sạch lòng ham (y phục).... Vừa trở thành lối thực
hành của đạo. Do đó, có thể bảo, không khổ hanh nào là
bất thiện.
79. Những người cho rằng
khổ hạnh là ở ngoài ba tánh (không thuộc thiện hay bất
thiện hay bất định), thì không có khổ hạnh kể về ý
nghĩa *. (ám chỉ những vị ở Abhayagiri tại Anuràdhapura.
Họ cho rằng khổ hạnh là một khái niệm chỉ có danh tướng
(nàma-pamatti), mà như vậy thì cũng không thể có nghĩa
rũ sạch cấu uế hay khả tính về sự thọ trì, vì theo ý
nghĩa tối hậu, chúng phi hữu, vì khái niệm tà phi hữu ).
Do rũ sạch cái gì, mà một cái vốn phi hữu có thể được
gọi là khổ hạnh? Vậy mà vẫn có câu "Bắt đầu thọ
trì những khổ hạnh" (Vin. iii, 15) do đó thành
mâu thuẫn.
Cho nên thuyết này (cho
rằng khổ hạn không ở trong ba tánh) không thể chấp nhận.
80. 5. Kế tiếp, có sự
phân biệt giữa ý nghĩa "người tu khổ hạnh",
"người nói về khổ hạnh", "các pháp khổ hạnh",
"các khổ hạnh", và hạng người nào cần thực
hành khổ hạnh.
81. Người tu khổ hạnh
là người đã rũ sạch cấu uế. Người giảng nói về
khổ hạnh: có người tu khổ hạnh mà không giảng về
khổ hạnh, có người giảng về khổ hạnh mà không phải
là người tu khổ hạnh, có người không giảng cũng không
tu, có người vừa giảng vừa tu.
82. Một người đã rũ
sạch những cấu uế nào một khổ hạnh, nhưng không khuyên
dạy kẻ khác thực hành khổ hạnh, là hạng thứ nhất, như
trưởng lão Bakkula (Bạc câu la). Người bản thân chưa
tẩy sạch những cấu uế, mà chỉ khuyên dạy kẻ khác tu
khổ hạnh, là như trưởng lão Upananda. Người không
tu khổ hạnh cũng không dạy khổ hạnh, như đại đức Làludàyin.
Người vừa tu khổ hạnh vừa dạy tu khổ hạnh, như bậc
tướng quân Chánh pháp là tôn giả Xá Lợi Phất.
83. Những pháp khổ
hạnh: là 5 pháp câu hữu với khổ hạnh: ít muốn, biết
đủ, viễn ly, độc cư, và cái có đư?c nhờ các thiện
pháp ấy.
84. Ít muốn và biết
đủ là vô tham. Ðộc cư và viễn ly là: viễn ly
thuộc về vô tham, độc cư thuộc vô si: "Cái có được
nhờ các thiên pháp ấy", là trí, cái trí nhờ đó một
người thực hành khổ hạnh, và kiên trì trong các đức tính
khổ h?nh (idamatthità: imenhi ku saladhammehiatthi: idam-athi). Ở
đây, nhờ vô tham mà một người rũ bỏ tâm tham đối với
những vật bị người rũ bỏ tâm tham đối với những vật
bị cấm chỉ. Nhờ vô si, vị ấy rũ bỏ cái mặt nạ lừa
dối khoác ở ngoài những vật ấy để che lấp sự nguy hiểm
của chúng. Và nhờ vô tham, vị ấy rũ bỏ đam mê khoái lạc
giác quan khi sử dụng những vật dụng hợp pháp. Nhờ vô
si, vị ấy rũ bỏ sự say mê khổ hạnh khi thực hành khổ
hạnh.
85. Những khổ hạnh
là 13 hạnh đầu đà nói trên.
86. Hạng người nào
trên tu khổ hạnh: Khổ hạnh thích hợp cho những cho những
người nhiều tham và si. Vì sao? Vì việc tu khổ hạnh vừa
là một tiến trình khó khăn, (xem Chương XXI, đoạn 117), vừa
là một sự trú trong viễn ly: do khó tiến, mà tham giảm thiểu;
do tinh cần trong viễn ly, si giảm thiểu. Hoặc hạnh ở rừng
và ở gốc cây thích hợp cho người nhiều sân, vì sân giảm
thiểu nơi một người ở những nơi không vướng vào xung
đột.
87. 6-7. Theo nhóm và
riêng biệt:
6. Theo nhóm, thì
những khổ hạnh chỉ gồm có tám: ba chính và năm lẻ. Ba
chính, là Khất từng nhà, nhất toạ thực, và ở ngoài trời.
Hạnh khất thực từng nhà bao gồm trong hạnh nhất toạ thực.
Và một người đã ở ngoài trời thì cần gì phải thọ giới
ở gốc cây, hay giới nghỉ chỗ não cũng được? Bởi vậy,
chỉ có ba khổ hạnh chính này, cùng với năm khổ hạnh riêng
biệt là ở rừng, mặc y phấn tảo, hạnh ba y, hạnh ngồi
và hạnh ở nghĩa địa làm thành tám khổ hạnh mà thôi.
88. Lại nữa, chúng gồm
bốn, hai liên hệ y phục, năm liên hệ thực phẩm, năm liên
hệ trú xứ, và 1 liên hệ đến sự tinh cần (khổ hạnh ngồi)
. Lại nữa, các khổ hạnh rút lại chỉ gồm hai: 12 hạnh
thuộc về trú sự, và một về tinh cần. Và gồm hai, xét
theo cái gì nên tu tập cái gì không nên. Khi một người tu
khổ hạnh thấy đề tài quán tưởng của mình được tiến
bộ, thì nên tu khổ hạnh, nhưng nếu không tiến bộ mà
còn thối, thì không nên tu. Khi vị ấy thấy dù khổ hạnh
hay không thiền quán vẫn tiến bộ, thì nên tu khổ hạnh
vì lòng thương tưởng đến hậu lai. Và khi vị ấy thấy,
dù tu khổ hạnh hay không, đề tài thiền quán vẫn không tiến
bộ, thì vị ấy vẫn nên tu khổ hạnh, để tạo một thói
quen tốt cho tương lại. Do đó, mà nói tất cả khổ hạnh
chỉ gồm hai thứ.
89. Và tất cả khổ hạnh
đều thuộc một loại, là tư tâm sở. Vì chỉ có một khổ
hạnh, đó là cái ý chí, chí nguyện thọ trì. Sớ giải
nói: "Chính tư tâm sở gọi là khổ hạnh".
90. 7. Riêng biệt,
thì có 13 khổ hạnh cho tỷ kheo, 8 cho tỷ kheo ni, 12 cho sa
di, 7 cho sa di ni và tịnh nữ, 2 cho nam, nữ cư sĩ. Như vậy
tất cả 42.
91. Nếu có một nghĩa
địa ở khoảng trống phù hợp với khổ hạnh ở rừng,
thì một tỷ kheo có thể đồng lúc thực hiện cả 13 khổ
hanh. Nhưng 2 khổ hạnh ở rừng và không ăn tán thực thì
Luật cấm các tỷ kheo ni thực hành. Và cũng khó cho những
vị này thực hành 3 khổ hạnh ở giữa trời, ở gốc cây
và ở nghĩa địa, vì tỷ kheo ni không được ở 1 mình
không có bạn ở chung, mà thực khó tìm được 1 người đồng
một khuynh hướng thích nơi như vậy và cho dù có 1 người
thì hành giả cũng không thoát khỏi tinh trạng phải sống
chung với 1 người khác. Bởi thế, việc tu khổ hạnh của
họ không đi đến đâu. Do vậy, khổ hạnh dành cho tỷ kheo
ni rút lại còn 8, vì một số khổ hạnh không thể áp dụng
cho nữ.
92. Từ khổ hạnh ba y,
12 khổ hạnh kia dành cho sa di, 7 khổ hạnh (8 khổ hạnh
dành cho sa-di ni và tịnh nữ). Hai khổ hạnh hợp nhất toạ
thực và ăn bằng bát là đặc biệt thích hợp cho nam nữ cư
sĩ. Với cách ấy, có hai loại khổ hạnh.
93. Ðến đây chấm dứt
luận về những khổ hạnh được thọ trì để viên mãn
các đức đặc biệt (ít muốn, biết đủ, v.v...) nhờ đó
phát sinh thanh tịnh giới, như được tả trong thanh tịnh giới,
như được tả trong thanh tịnh đạo, đạo lộ được chỉ
rõ trong bài kệ "Người trú giới có trí..." dưới
ba đề mục Giới, Ðịnh và Tuệ.
Chương này được soạn
để làm hoan hỷ những người lành.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)