Chức
sắc là người có phẩm vị, chức vụ đóng vai trò quan trọng trong việc
quản lý, điều hành đạo sự theo tôn chỉ, mục đích đã đề ra của tổ chức
tôn giáo. Chức sắc còn đại diện cho quần chúng tín đồ chịu trách nhiệm
về hoạt động của đạo đối với xã hội. Nghiên cứu một tôn giáo trước tiên
phải tìm hiểu về hệ thống tổ chức, trong đó có phẩm vị chức sắc tôn
giáo.
Tôn
giáo Cao đài ra đời ở Việt Nam có hệ thống tổ chức Giáo hội khá chặt
chẽ, phẩm vị chức sắc đa dạng gồm chức sắc lưỡng đài (Cửu Trùng đài,
Hiệp Thiên đài), lưỡng phái (nam, nữ), chức sắc Phước thiện.
Trước
đây, phẩm vị chức sắc đạo Cao đài do Đức Cao đài thiên phong bằng cơ
bút hoặc do Hội thánh công cử. Chức sắc đạo Cao đài có nhiệm vụ truyền
bá chơn lý đạo, dìu dắt nhơn sanh và nêu gương đạo đức cho nhơn sanh noi
theo. Chức sắc phải thực hiện trường trai tuyệt dục để râu tóc, có tâm
sáng và hành đạo cứu độ nhơn sanh.
Đạo
Cao đài ban đầu là một Giáo hội thống nhất sau đó chia rẽ thành nhiều
phái khác nhau có lúc lên đến trên 30 chi phái. Mỗi phái Cao đài lại xây
dựng hệ thống tổ chức khác nhau, dẫn đến việc chênh lệch về phẩm vị,
trình độ. Nhưng nhìn chung, các Hội thánh Cao đài vẫn duy trì hệ thống
tổ chức và phẩm vị chức sắc theo Tân luật, Pháp Chánh truyền.
Giai
đoạn đầu từ 1926 đến 1930 là quá trình hình thành và xây dựng hệ thống
tổ chức, kiện toàn phẩm vị chức sắc của đạo Cao đài. Ngày 23/4/1926 (tức
13/3/Bính Dần), Đức Cao đài thiên phong ông Ngô Minh Chiêu làm Giáo
tông.
Ngày
26/4/1926 (tức 15/3/Bính Dần), tại nhà ông Lê Văn Trung, Đức Cao đài
thiên phong cho 7 vị chức sắc gồm: Lê Văn Trung thánh danh Thượng Trung
Nhật phẩm Thượng Đầu sư; Lê Văn Lịch thánh danh Ngọc Lịch Thanh phẩm
Ngọc Đầu sư; Phạm Công Tắc phẩm Hộ pháp, Hộ giá Tiên Đồng Tá cơ; Cao
Quỳnh Cư, Tá cơ Tiên hạc Đạo sỹ; Trương Hữu Đức và Nguyễn Trung Hậu phẩm
Tiên đạo Phò cơ Đạo sỹ; Vương Quan Kỳ phẩm Giáo sư, Tiên sắc Lang quân
Nhậm thuyết đạo; Đoàn Văn Bản, Tiên đạo Công thần Thuyết đạo sử.
Ngày
1/7 năm Bính Dần, lễ thiên phong chức sắc được tổ chức tại nhà ông Lê
Văn Trung cùng một số người được ân ban thiên phong là ông Nguyễn Ngọc
Tương, ông Nguyễn Ngọc Thơ, ông Ngô Văn Kim...
Ngày
7/10/1926 (tức 1/9/Bính Dần), 28 vị chức sắc thiên phong đứng tên vào
Tờ khai tịch đạo gửi chính quyền Pháp xin thành lập tôn giáo Cao đài ở
Việt Nam. Các vị chức sắc này đại diện cho 247 tín đồ, có công đầu trong
việc khai đạo Cao đài về sau họ đều trở thành những chức sắc cao cấp.
Ngày 10/9 năm Bính Dần, Đức Cao đài tiếp tục thiên phong cho
ông Trần Văn Thụ phẩm Ngọc Chưởng pháp, Thiên sắc Nho tông Chưởng giáo
Tuyến đạo Thuyền sư Đại đức Đại hoà Đạo sỹ; ông Nguyễn Văn Tương phẩm
Thượng Chưởng pháp, Thiên sắc Thuyết pháp Đạo sư Chưởng quản Oai linh Đạo sỹ.
Đến ngày khai đạo 15/10 năm Bính Dần (tức ngày 19/11/1926),
đạo Cao đài đã có hệ thống tổ chức và phẩm vị chức sắc Cửu Trùng đài gồm
46 vị: 3 vị Chưởng pháp; 3 vị Đầu sư; 3 vị Chánh Phối sư; 1 vị Phối sư;
23 vị Giáo sư; 11 Giáo hữu, 2 nữ Giáo sư. Chức sắc Hiệp Thiên đài gồm
có 15 vị: 01 vị Hộ pháp; 1 vị Thượng phẩm; 01 vị Thượng sanh; 12 Tiên
đạo Phò cơ Đạo sỹ.
Như vậy, tính đến ngày khai minh Đại đạo số lượng chức sắc
lãnh đạo cao cấp của Giáo hội cơ bản đầy đủ. Phẩm Giáo tông còn thiếu do
ông Ngô Minh Chiêu không nhận vì ông chủ trương tu hành "vô vi" cơ
tuyển độ, theo bí pháp chân truyền của Đức Cao đài "Nội giáo tâm
truyền".
Theo Tân luật, Pháp Chánh truyền của đạo thì hệ thống tổ chức và phẩm vị chức sắc đạo Cao đài gồm có:
Chức sắc Cửu Trùng đài gồm:
Nam phái: được chia theo cửu phẩm tương ứng với cửu phẩm thần tiên ở cõi thiêng liêng.
Giáo tông tương ứng với Thiên Tiên
Chưởng pháp tương ứng với Nhơn Tiên Tiên
Đầu sư tương ứng với Địa Tiên
Phối sư tương ứng với Thiên Thánh
Giáo sư tương ứng với Nhơn Thánh Thánh
Giáo hữu tương ứng với Địa Thánh
Lễ sanh tương ứng với Thiên Thần
Chức việc tương ứng với Nhơn Thần Thần
Tín đồ tương ứng với Địa Thần
+
Giáo tông là chức sắc cao nhất trong đạo, có nhiệm vụ thay mặt Đức Chí
Tôn để bảo vệ duy trì chân lý đạo Cao đài, có quyền về phần hữu hình
(phần xác) không có quyền về phần hồn.
+
Chưởng pháp gồm có 3 vị (Thái - Ngọc - Thượng) có quyền xem xét luật lệ
trước khi thi hành, Chưởng pháp là người thay mặt Hiệp Thiên đài nơi
Cửu Trùng đài.
+
Đầu sư gồm 3 vị (Thái - Thượng - Ngọc) là người có quyền lập luật song
phải dâng cho Giáo tông phê chuẩn cai trị phần đời và phần đạo của tín
đồ.
+
Phối sư mỗi phái (Thái - Thượng - Ngọc) có 12 người, cộng lại là 36
người, trong đó có 3 vị Chánh Phối sư. Chánh Phối sư được phép thay
quyền cho Đầu sư, song không có quyền cầu phá luật lệ. Phối sư là người
lãnh quyền của Chánh Phối sư ban cho, công việc đều tuân lệnh theo Chánh
Phối sư.
+ Giáo sư có 72 vị, mỗi phái (Thái - Thượng - Ngọc) là 24 người, có nhiệm vụ dạy dỗ nhơn sanh trong đường đạo và đường đời.
+ Giáo hữu có 3000 vị, mỗi phái (Thái - Thượng - Ngọc) gồm 1.000 người, có nhiệm vụ phổ thông chơn đạo.
+ Lễ sanh không phải hàng chức sắc (không hạn định số lượng) là những người có đức hạnh, được đi khai đàn cho mỗi tín đồ.
+ Chức việc là những người giúp Lễ sanh và Đầu họ đạo trong các công việc đạo sự, bao gồm Chánh Trị sự, Phó Trị sự và Thông sự.
+ Tín đồ là người nhập môn theo đạo, gồm 2 bậc. Hạ thừa thực
hiện chay giới từ 6 đến 10 ngày trong tháng, giữ Ngũ giới cấm, Tứ đại
điều quy và tuân theo Thế luật của đạo. Thượng thừa là người giữ trường
trai, phế thân hành đạo, tu luyện tại các cơ sở đạo.
Chức sắc Nữ phái:
Không
có 2 phẩm Giáo tông và Chưởng pháp như nam phái mà chỉ có từ phẩm Đầu
sư trở xuống. Chức sắc nữ phái không chia ba phái Thái - Thượng - Ngọc
mà chỉ có một vị Đầu sư và Chánh Phối sư, các phẩm còn lại bằng 1/3 nam
phái. Ngoài các phẩm được ghi trong Pháp Chánh truyền, nữ phái còn có
một phẩm nữa là Giáo nhi có nhiệm vụ dạy dỗ các nữ Đồng nhi.
Chức sắc Hiệp Thiên đài:
+ Hộ pháp là người đứng đầu cơ quan Hiệp Thiên đài có nhiệm
vụ giữ gìn luật pháp đạo, có quyền xét xử và ban thưởng chức sắc, tín
đồ. Hộ pháp là Chưởng quản Hiệp Thiên đài kiêm Chưởng quản chi Pháp.
+ Thượng phẩm là người thay mặt Hộ pháp chưởng quản chi Đạo
có nhiệm vụ cai quản các thánh thất, thuyên bổ, kiểm soát việc tu hành
và làm luật sư cho chức sắc và tín đồ.
+ Thượng sanh lo về phần đời là người thay mặt Hộ pháp chưởng
quản chi Thế có nhiệm vụ kiểm soát nhân phẩm cung cách hành đạo của
chức sắc, và dìu dắt, độ rỗi nhơn sanh vào đạo...
+ Thập nhị thời quân: gồm 12 vị thời quân phụ tá cho Hộ pháp,
Thượng phẩm, Thượng sanh, chia thành 3 chi: Pháp - Đạo - Thế.
- Chi Pháp:
+ Bảo pháp làm nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ luật đạo.
+ Hiến pháp làm nhiệm vụ tìm kiếm phương pháp và truyền bá tư tưởng về luật đạo.
+ Khai pháp làm nhiệm vụ nghiên cứu và hướng dẫn nhơn sanh thực hiện tốt luật đạo.
+ Tiếp pháp làm nhiệm vụ tiếp nhận luật đạo và cho ban hành luật đạo.
- Chi Đạo:
+ Bảo đạo làm nhiệm vụ giám sát việc chấp hành giáo luật của chức sắc, tín đồ.
+ Hiến đạo làm nhiệm vụ tìm kiếm và truyền bá tư tưởng để giúp nhơn sanh chấp hành đúng luật đạo .
+ Khai đạo làm nhiệm vụ nghiên cứu và hướng dẫn nhơn sanh thực hiện luật pháp Nhà nước theo giáo luật.
+ Tiếp đạo làm nhiệm vụ giúp các đạo hữu giảm bớt khó khăn, bất công trong đạo.
- Chi Thế:
+ Bảo thế làm nhiệm vụ giám sát việc chấp hành luật pháp của chức sắc, tín đồ.
+ Hiến thế làm nhiệm vụ tìm kiếm và truyền bá tư tưởng để giúp nhơn sanh chấp hành đúng pháp luật Nhà nước.
+ Khai thế làm nhiệm vụ nghiên cứu và hướng dẫn nhơn sanh thực hiện luật đạo theo pháp luật.
+ Tiếp thế làm nhiệm vụ giúp nhơn sanh giảm bớt khó khăn, bất công trong cuộc sống.
+ Thập nhị Bảo quân làm phụ tá cho 12 vị Thập nhị Thời quân:
Bảo huyền Linh quân chuyên về Thần linh học
Bảo Tinh quân chuyên về Thiên văn học
Bảo Cơ quân chuyên về Luật pháp
Bảo văn Pháp quân chuyên về Nghệ thuật
Bảo Học quân chuyên về Giáo dục
Bảo y quân chuyên về Y học
Bảo vật quân chuyên về Vạn vật và kỹ nghệ
Bảo sỹ quân chuyên về Văn chương
Bảo sanh quân chuyên về Xã hội
Bảo nông quân chuyên về Nông nghiệp
Bảo công quân chuyên về Công chánh
Bảo thương quân chuyên về Kinh tế
+ Tiếp dẫn đạo nhân là người có nhiệm vụ truyền bá chơn đạo cho nhơn sanh.
+ Chưởng ấn người làm chủ một phiên toà đạo.
+ Cải trạng có nhiệm vụ biện hộ và bào chữa cho bị can mắc luật đạo.
+ Giám đạo là người kiểm soát, thanh tra luật pháp đạo.
+ Thừa sử có nhiệm vụ bảo vệ luật pháp đạo và hoà giải các vụ kiện cáo trong đạo.
+ Truyền trạng là người chuyển giao các đơn từ, cáo trạng.
+ Sĩ tải là người lưu trữ văn thư, công văn của đạo.
+ Luật sự (phẩm thấp nhất trong Hiệp Thiên đài) là người còn phải học tập về giáo lý và luật đạo.
Có
thể nói, đạo Cao đài có hệ thống phẩm vị chức sắc đa dạng, được tổ chức
tương đối chặt chẽ và đóng vai trò quan trọng trong bộ máy hành chính
đạo. Mỗi chức sắc được quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm rõ ràng.
Hoạt động của chức sắc có sự giám sát lẫn nhau giữa chức sắc Cửu Trùng
đài và chức sắc Hiệp Thiên đài, đảm bảo dân chủ trong điều hành và hoạt
động. Hiện nay, đa số các Hội thánh Cao đài đều chưa đủ phẩm vị chức sắc
hành đạo theo Tân luật, Pháp Chánh truyền.
Minh Trí
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét